Cửa Ngọ Môn tại kinh thành Huế - biểu tượng của nhà Nguyễn
Ngày 19 - 01- 2014, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế và
hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc tổ chức lễ giỗ lần thứ 195 của vua Gia Long
(1763 – 1820) và kỷ niệm 210 năm quốc hiệu Việt Nam. Buổi lễ được tổ chức trang
trọng tại Thế Tổ miếu – Hoàng thành Huế , lãnh đạo tỉnh Thừa thiên – Huế, nhiều
nhân sĩ , trí thức cùng đông đảo bà con dòng họ Nguyễn Phúc đã đến dự. Tại lễ
kỷ niệm này Tiến sĩ Phan Thanh Hải – Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô
Huế - trong lời phát biểu của mình ông cho rằng : “ … dưới thời của Vua Gia
Long , lãnh thổ của nước Việt Nam rộng lớn nhất, trải dài từ biên giới Trung
Hoa đến vịnh Thái Lan, gồm cả quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Đặc biệt dưới
thời Gia Long, quốc hiệu Việt Nam lần đầu tiên được chính thức sử dụng vào năm
1804 …” ông cho rằng “ Tên nước Việt Nam đã có từ thời Lê và thời các chúa
Nguyễn, song đến thời Gia Long – năm 1804, vị Vua này đã đặt quốc hiệu Việt
Nam, có nghĩa đã 210 năm cái tên Việt Nam được đặt và xác lập chính thức !”.
Trên đây là toàn văn một mẩu tin ngắn tôi tình cờ đọc được
trên báo Tuổi trẻ số ra ngày Thứ hai , 20 -1-2014 ( số 20/2014 (7489) ). Theo
dòng thời sự thì đây là một mẩu tin ngắn bình thường như bao mẩu tin khác, nó
cũng có thể là lạc lõng giữa hàng vạn mẩu tin trên hàng ngàn tờ báo hình và báo
giấy khác nhau đang lưu hành trên đất nước này. Nhưng với rất nhiều người thì
đây là một tin mừng, nó có thể là một sự đổi thay trong nhận thức của nhiều thế
hệ trước đây, là sự công nhận bước đầu của một sự thật lịch sử và trả lại sự
công bằng cho lịch sử; nhằm đáp lại sự trông chờ mấy mươi năm của quãng đại
quần chúng - nhất là những người yêu lịch sử nước Việt .
Tôi chỉ là một kẻ hậu sinh, khi tôi sinh ra (1960) thì chế
độ quân chủ chỉ còn là một dĩ vãng, tôi chỉ biết “chế độ phong kiến lạc hậu”
qua những trang sách của tuổi học trò và những thành quách, đền đài cung điện
đổ nát ở quê tôi. Tôi cũng được nghe những truyền thống văn hóa của quê hương -
nơi xưa kia là chốn Kinh Kỳ, qua lời kể của cha và lời ru ngọt ngào của mẹ vào
những buổi trưa hè. Xứ Huế quê tôi với những làn điệu Nam Ai - Nam Bình, những
câu ca Huế đã đi vào lòng những người con xứ Huế đang tha hương. Lớn lên một
chút tôi cũng như mọi người dân xứ Huế cũng phải sống trong bom rơi đạn rớt,
với những tan hoang của làng xóm và một phần không nhỏ người dân của xứ Huế
buộc phải tha hương.
Sau khi hòa bình lập lại tôi vẫn đang còn là một cậu học
sinh cấp III, tôi vẫn hàng ngày cắp sách tới trường, vẫn phải nghe thầy cô lên
án "chế độ phong kiến lạc hậu” và sự " thối nát, bán nước” của triều
Nguyễn. Trong đầu óc ngây thơ của một đứa học trò tôi nghỉ rằng các Chúa Nguyễn
và các Vua nhà Nguyễn phải mang một trọng tội gì đó ghê gớm lắm với dân tộc với
đất nước mới bị lên án như vậy ?
Trong các môn học dưới mái trường phổ thông, môn mà tôi thích nhất là môn Lịch
sử, tôi có thể đọc ngấu nghiến mọi cuốn sách, các bài viết, các mẩu tin viết về
sử ở mọi lúc mọi nơi và cuối cùng cũng đã tích lũy được một số kiến thức về
lịch sử dân tộc và lịch sử một số nước. Tôi cũng có được may mắn là được học sử
qua những người thầy của hai chính thể khác nhau, qua họ tôi cũng tiếp thu được
cách đánh giá lịch sử khác nhau theo quan điểm của chính thể mà họ đang được
trả lương. Qua thời gian tôi cũng nhận biết được phần nào sự thật của lịch sử.
Tôi cũng đã đọc và nghiên cứu khá nhiều sách, các công trình nghiên cứu, các
luận văn của các sử gia nước ngoài với nhiều chính kiến khác nhau, viết về lịch
sử cận đại Việt Nam và công cuộc mở mang bờ cỏi về phía Nam của ông cha ta vào
thế kỷ XVII - XVIII. Nhưng tôi chỉ là một người viết báo-viết văn bình thường,
không màng thế sự, không phán xét ai, không buộc mọi người phải làm theo ý mình
và không làm gì ảnh hưởng đến hòa bình của thế giới này.
Như chúng ta đã biết, nhà Nguyễn bắt đầu dựng nghiệp ở đất
phương Nam từ vị Chúa đầu tiên là Chúa Tiên – tức Nguyễn Hoàng. Sau khi cha ông
là Nguyễn Kim mất, ông từ bỏ trấn Thanh Hoa (Thanh Hóa và Ninh Bình ngày nay),
xin vua Lê vào trấn thủ vùng Thuận Hóa lần đầu - chỉ với mục đích duy nhất là
tránh sự truy sát của người anh rể Trịnh Kiểm - năm 1558, khi ông chỉ mới 34
tuổi. Lần thứ ba cũng là lần cuối ông vào Thuận Hóa là vào năm 1600 - khi ông
đã 76 tuổi - là một cuộc chạy trốn thực sự nhằm thoát khỏi vòng cương tỏa của
Trịnh Tùng ; thì cương thổ của nước Việt chúng ta chỉ mới giới hạn là từ đèo Cù
Mông thuộc ranh giới hai tỉnh Bình Định và Phú Yên ngày nay trở ra phía Bắc.
Ông và các đời Chúa Nguyễn cũng như các đời Vua Nguyễn tiếp theo đã mở mang bờ
cõi cho đến tận Hà tiên ngày nay.
Lãnh thổ nước Việt hoàn chỉnh như ngày nay với những vựa lúa
thẳng cánh cò bay ở Nam bộ từ đâu mà có ? Sài gòn hoa lệ " hòn ngọc viễn
đông" nơi đóng góp 1/3 GDP của Việt Nam hiện nay, duyên hải Nam Trung bộ
với những thành phố du lịch nổi tiếng Nha Trang , Phan Thiết ...Vùng Tây Nguyên
với những cánh rừng cà phê bạt ngàn, đông Nam bộ với những đồn điền cao su
thẳng tắp với một màu xanh ngắt - chắc không phải từ trên trời rơi xuống ? Xin
thưa rằng - nếu không có triều Nguyễn thì nó mãi mãi là những vùng đất của các
nước láng giềng Chăm Pa, Chân Lạp. Tôi cũng biết công lao này không phải của
một mình của các Vua Chúa Nhà Nguyễn mà là máu xương của hàng ngàn hàng vạn
người dân nước Việt đã đổ ra để có được lãnh thổ nước Việt hoàn chỉnh như ngày
hôm nay. Nhưng công đầu là của những người đứng đầu đất nước dưới thời Quân Chủ
lúc ấy.
Sự thật lịch sử này đã được GS . Trần Quốc Vượng khẳng định
từ năm 1987 trên một bài viết được đăng trên tạp chí Sông Hương số 25 – 06/
1987 (Giáo sư là một trong Tứ trụ của sử học Việt Nam đương đại : Lâm , Lê,
Tấn, Vượng ) , rằng : “ Có thời Nguyễn, chúng ta mới có một Việt Nam hoàn chỉnh
như ngày nay...” . Góp phần nhận thức về vai trò lịch sử của nhà Nguyễn (1802 –
1945), GS. Trần Thanh Đạm - Báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 41 ngày 30 tháng 10
năm 2008 , trích: - " Nhiều tư liệu đã có hoặc mới phát hiện đã chứng minh
rằng trong nửa thế kỷ XIX, đối với đất nước Việt Nam, nhà Nguyễn đã làm được
không ít việc, và nhiều việc có thể được gọi là những thành tựu. Ví dụ: đối với
sự nghiệp thống nhất đất nước, dù rằng việc này được khởi đầu từ phong trào Tây
Sơn song việc thống nhất đang còn dở dang, thậm chí cuối thời Tây Sơn cũng đang
có nguy cơ phân liệt. Chính Nguyễn Ánh đã hoàn thành công việc dở dang này,
hoàn thành sự nghiệp thống nhất, kết thúc tình trạng đất nước chia hai, quy
giang sơn về một mối.”
Về nguyên nhân mất nước có những ý kiến khác nhau về trách
nhiệm của các vua nhà Nguyễn đối với việc Việt Nam mất vào tay người Pháp :
- Có nhiều ý kiến “ với xu hướng quy trách nhiệm hoàn toàn cho các vua Nguyễn đối với việc mất nước rằng Nguyễn Ánh đã "cõng rắn cắn gà nhà" và Tự Đức "bán rẻ đất nước" cho thực dân ".
- Về phía Pháp, sử gia Gosselin nói rằng “các hoàng đế An Nam phải chịu trách nhiệm về sự đổ vỡ và xuống dốc của đất nước họ. Dân xứ này, quan lại, binh lính xứng đáng có được những người cầm đầu có giá trị hơn thế. Chính quyền họ đã mù quáng vì không dự liệu, không chuẩn bị gì hết.”
- Nhưng chính các nhà sử học đương đại nhận định rằng “ Việt Nam mất vào tay thực dân Pháp là một tất yếu lịch sử, hoặc ít ra cũng do trình độ dân trí Việt Nam quá thấp kém so với người Pháp " ( Phạm Văn Sơn - Việt Sử tân biên). Hoặc " Kết cục của triều Nguyễn có thể gọi là sự đầu hàng để mất nước. Nhưng đừng quá lời coi đó là sự bán nước vì không thể không nói đến gần 20 năm phản kháng chống xâm lược không chỉ của dân chúng mà cả triều đình. Những cuộc chiến đấu dũng mãnh của quan quân triều đình cùng nhân dân trên cửa biển Sơn Trà, trên thành Điện Hải, của quân dân Nam Bộ trên chiến lũy Kỳ Hoà, trên cổng thành Cửa Bắc Hà Nội với cái chết anh hùng của hai vị Tổng đốc thành Hà Nội là Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu là bằng chứng...”(Dương Trung Quốc).
- Trong cuộc hội thảo quốc gia năm 2008 về "Chúa Nguyễn
và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX ”,
Giáo sư Phan Huy Lê cho rằng " sự phê phán, lên án đến mức độ gần như phủ
định mọi thành tựu của thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn trước đây là quá
bất công, thiếu khách quan, nhất là khi đưa vào nội dung Sách giáo khoa phổ
thông để phổ cập trong lớp trẻ và xã hội... các nhà sử học dĩ nhiên có trách
nhiệm của mình trong vận dụng phương pháp luận sử học chưa được khách quan,
trung thực.”
Hiện nay, theo giáo sư Phan Huy Lê, "cần thiết phải khẳng định công lao
của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong việc mở mang bờ cõi, thống nhất
đất nước, phát triển giáo dục, văn hóa. Những gì được coi là “tội” của các vua
chúa Nguyễn cũng phải được xem xét lại cho thật công bằng ”.
- GS. Trần Quốc Vượng trong bài viết nói trên ngay từ năm
1987 đã cho rằng “ Tôi không thích nhà làm sử cứ theo ý chủ quan của mình, và
từ chỗ đứng của thời đại mình mà chửi tràn chửi lấp toàn bộ nhà Nguyễn cho
sướng miệng và ra vẻ có lập trường. Có thời nhà Nguyễn chúng ta mới có một Việt
Nam hoàn chỉnh như ngày nay ”. Tôi cũng đồng ý với nhà thơ Nguyễn Duy khi anh
cho rằng :" Cho đến bây giờ, nhiều người biết rằng nhà Nguyễn có công lớn
đối với nước nhà, nhưng không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại bị biến dạng, bị
hạ thấp một cách oan sai về thang bậc giá trị lịch sử và văn hoá." .
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, " ở giai đoạn cao trào của việc " đả thực
bài phong ", khi ông được trung ương phân công chỉ đạo việc biên soạn bộ
sách lịch sử do Ủy ban Khoa học Xã hội chủ trì - đả phá quyết liệt các chúa
Nguyễn và triều Nguyễn, ông cũng đã nhắc nhở những người tham gia biên soạn bộ
sử ấy rằng, rồi “đến lúc nào đó ” phải đánh giá lại chính những quan điểm của
bộ sử này về các chúa Nguyễn và triều Nguyễn " .
Đọc đến đây chắc quý vị cũng như tôi sẽ thắc mắc , tại sao
các nhà sử học lại phải méo mó lịch sử và phải đợi " đến lúc nào đó"
để đánh giá lại chính quan điểm của chính bộ sử mà mình tham gia biên soạn. Thì
ngay sau đây tôi xin phép được trích dẫn ý kiến của chính các nhà sử học đó :
- Theo nhà sử học Dương Trung Quốc thì bởi " Bối cảnh
chính trị của cuộc cách mạng “phản đế - phản phong” cùng lập trường đấu tranh
giai cấp và cải tạo xã hội chủ nghĩa , đã kéo dài sự đánh giá một sắc màu tiêu
cực về nhà Nguyễn...". Ông cũng cho rằng " Sử học là một khoa học,
nhưng nó cũng không thể không mang màu sắc chính trị." và " Trong
nhận thức ấy, xin đừng trách nền sử học một thời đã từng lên án nhà Nguyễn với
những đánh giá mà ngày nay ta thấy thiếu sự công bằng."
- Giáo sư Phan Huy Lê cũng cho rằng " sau Cách mạng tháng Tám - 1945 cho đến 1975, trong thời kỳ chiến tranh, công việc nghiên cứu nói chung có bị hạn chế, số lượng công trình nghiên cứu không nhiều. Và cơ bản nhất là đã xuất hiện một khuynh hướng phê phán gay gắt các chúa Nguyễn, đặc biệt là vương triều Nguyễn: chia cắt đất nước, cầu viện ngoại bang, đầu hàng thực dân xâm lược... Thời kỳ nhà Nguyễn bị đánh giá là thời kỳ chuyên chế phản động nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Khuynh hướng đó gần như trở thành quan điểm chính thống
trong biên soạn sách giáo khoa đại học và phổ thông." và giai đoạn này
" là thời kỳ mà nền sử học Mácxít đang hình thành nên sự ấu trĩ, giáo
điều, công thức buổi đầu là không tránh khỏi. Không chỉ nhà Nguyễn mà nhà Mạc,
nhà Hồ cũng chịu cái nhìn thiếu khách quan, công bằng tương tự...".
Và cũng chính vì sự " ấu trĩ, giáo điều" một thời,
như sự nhìn nhận trên đây của vị Giáo sư Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
mà Hoàng thành Huế và các khu lăng tẩm của các triều Vua Nguyễn ở Huế. Sau một
thời gian dài là nạn nhân của bom đạn chiến tranh, của thiên tai lũ lụt, tiếp
tục là nạn nhân của nhân tai và bị bỏ phế thành phế tích hàng chục năm sau ngày
đất nước thống nhất ? Những người dân xứ Huế ngậm ngùi đứng nhìn những thành
quách, những khu lăng tẩm kỳ vĩ, những lầu đài cung điện vang bóng một thời trở
thành những đống đổ nát !
Chỉ đến khi ánh sáng của đổi mới soi rọi trên vùng đất cố đô, thì những thắng
tích, những thành tựu của tổ tiên hàng trăm năm về trước mới được tôn vinh và
được phục hồi, thế hệ chúng ta phải mò mẩn tìm lại những tinh hoa của tổ tiên
sau thời gian dài bị gián đoạn. Và cũng chỉ là những gì còn lại trong đống phế
tích mà thế giới đã phải kính phục gọi nó là kỳ quan của thế giới .
Vào ngày 11 tháng 12 năm 1993 tổ chức UNESCO đã công nhận
Quần thể di tích cố đô Huế là Di sản Văn Hóa thế giới - đây là một sự ghi nhận
xứng đáng của thế giới cho công lao của Triều Nguyễn. Không lâu sau đó Nhã nhạc
cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là " Kiệt tác truyền khẩu và phi
vật thể nhân loại " , vào năm 2003. Theo đánh giá của UNESCO, "trong
các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc
gia". Cố đô đã lấy lại được một phần sắc khí của một thời rực rỡ, làm ấm
lòng những người con xứ Huế đang tha hương .
Hiện nay mỗi khi về với Huế, khi quan sát thấy hàng triệu du
khách đến tham quan Huế mỗi năm, thấy họ say sưa với những điệu hò câu ca trên
sông Hương, thấy tao nhân mặc khách với đủ các màu da đang thơ thẩn trong Hoàng
thành, thấy các đôi trai gái người nước ngoài nằm nghỉ trưa trong bãi cỏ ở Đại
Nội, thấy các đoàn nghệ thuật và du khách khắp thế giới chen chúc nhau trong
mỗi kỳ Festival Huế, những người dân xứ Huế chúng tôi cảm thấy tự hào. Xin được
nói một lời tri ân với các bậc tiền nhân đã tạo ra vùng đất này (cũng như toàn
bộ vùng đất phía Nam của đất nước), đã xây dựng và bảo vệ nó mãi mãi trong lòng
nước Việt mến yêu .
Tuy nhiên, rất đáng tiếc là cho mãi tới năm 2007, một nhà sử
học nổi tiếng người Họ Đinh (xin không nêu tên vì ông vừa mới mất ) trong một
cuốn sách mới xuất bản của mình, cuốn Đại cương Lịch sử Việt Nam tập II , vẫn
cố bảo vệ quan điểm một thời của mình, quan điểm mà như Giáo Sư Phan Huy Lê gọi
là sự " ấu trĩ , giáo điều". Ông vẫn cho rằng nhà Nguyễn "là 1 nhà
nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung cao độ với 1 chế độ chính trị lạc
hậu, phản động" , "Mọi chính sách chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
triều Nguyễn ban hành đều nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ đặc quyền đặc lợi
cho tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn" . Các biện pháp mộ dân đưa đến những
vùng đất mới ở phía Nam để xây dựng nên những xóm làng, hay khuyến khích nhân
dân khai hoang lập ấp trên những vùng đất mới của Triều Nguyễn - ông cho rằng
là đều "xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị ". Ông vẫn đao to
búa lớn bảo vệ quan điểm một thời của mình ngay giữa thế kỷ XXI - thế kỷ của
hội nhập, rằng : " Để duy trì chế độ xã hội thối nát nhằm bảo vệ đặc quyền
đặc lợi, phong kiến nhà Nguyễn ra sức củng cố trật tự bằng mọi cách." ,
"Đối nội, chúng ra sức đàn áp khủng bố các phong trào của quần chúng
" và " Đối ngoại, chúng ra sức đẩy mạnh thủ đoạn “ xâm lược” đối với
các nước láng giềng như Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính
quốc gia và tài lực nhân dân bị khánh kiệt...Với những chính sách phản động nói
trên, nước Việt Nam đã suy yếu về mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với
các nước tư bản phương Tây ."
Bà con Họ Đinh xứ Huế nghĩ gì khi đọc những dòng trích dẫn
trên đây của sử gia này ? Riêng đối với tôi, tôi cũng đã đọc và nghiên cứu khá
nhiều cuốn chính sử của các nước, một số công trình nghiên cứu về sử, nhiều bài
báo và một số luận văn Tiến sĩ về Lịch sử của các tác giả nước ngoài; kể cả
đông, tây , kim , cổ . Thậm chí tìm đọc nhiều từ điển của Việt Nam và của một
số nước, kể cả Bách khoa toàn thư (Wikipedia) trên Internet. Nhưng không tìm
thấy ở đâu mà “một người dân của một nước” dám gọi những Vị Vua của một triều
đại quân chủ của nước mình - khi các vị Vua này đã đổ biết bao công sức của
Triều đại mình cùng với xương máu của muôn dân để mở mang bờ cõi đất nước; để
tìm thêm không gian sống cho dân tộc mình - từ một tiểu quốc nhỏ bé trở thành
một nước có diện tích trung bình như hiện nay là những “ KẺ XÂM LƯỢC ” nước
khác cả ?
Tôi mong rằng khi mỗi một ai đó – nếu muốn “phán xét tổ
tiên” hãy thử đặt mình vào vị thế, không gian và thời gian mà người bị mình
phán xét đã sống. Bởi với vị thế và góc nhìn của một con người đang sống ở thế
kỷ XXI (với chăn ấm, gối êm); mà tự cho mình cái quyền phán xét sự đúng - sai
của một quá trình chinh chiến gian khổ, với không biết bao nhiêu xương máu đã
đổ ra, giành giật từng tất đất để lập nước và giữ nước của tổ tiên; xuyên suốt
hàng mấy trăm năm về trước với những ngôn từ nặng nề như trên là một điều phi
lý ?
Thuở còn đi học, những người thầy đã dạy tôi rằng : “Đừng
nên phán xét lịch sử theo quan điểm chủ quan của cá nhân mình”. Vì “ lịch sử
tùy thuộc vào góc nhìn ”. Nhưng tiếc rằng chính họ đã làm ngược lại ?
Nhưng những gì tôi cần trình bày trên đây, các sử gia đương
đại đã nói nhiều và đã nói trước tôi nhiều năm. Riêng tôi do kiến thức còn hạn
hẹp nên với chỉ vài dòng phân tích ngắn ngủi trên chỉ mong góp thêm một tiếng
nói về một sự thật lịch sử đang dần được sáng tỏ. Nhưng với một triều đại có
thời gian tồn tại hơn 300 năm (1600 - 1945) và với nhiều chính kiến khác nhau,
nhiều cách đánh giá khác nhau - về các Chúa Nguyễn và triều Nguyễn trong lịch
sử dân tộc - thì kiến thức của mình quả là quá nhỏ bé .
Xin cám ơn Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế và các cấp chính quyền của tỉnh
Thừa thiên – Huế đã tổ chức một buổi lễ đầy ý nghĩa, buổi lễ đã ghi nhận phần
nào công lao của các bật tiền nhân đã mở cõi về phương Nam tìm thêm không gian
sống cho dân tộc Việt và ghi nhớ người đã đặt quốc hiệu Việt Nam . Đồng thời
khẳng định đạo lý " Ăn quả nhớ kẻ trồng cây", " Uống nước nhớ
nguồn" của người Việt Nam .
Về khía cạnh văn hóa một vùng miền, như đã nói ở trên triều
Nguyễn đã để lại cho dân tộc một cố đô Huế thơ mộng , một vùng văn hóa đặc sắc
với bốn di sản thế giới . Và để trả lại việc " ... bị biến dạng, bị hạ
thấp một cách oan sai về thang bậc giá trị lịch sử và văn hoá " của miền
đất các Di Sản Văn Hóa này như một số học giả phát biểu trên đây.
Trong buổi làm việc về "Bảo tồn Văn hóa và di sản Huế
", giữa Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế và Hội đồng Di sản Văn hóa
quốc gia (UNESCO Việt Nam ) ngày 08 - 05 - 2007 tại tỉnh Thừa Thiên - Huế, đã
thống nhất kết luận : - " Huế là một phức hợp các giá trị văn hóa , phức
hợp các giá trị đô thị di sản, là đỉnh cao của văn hóa đô thị Việt Nam, xứng
đáng là đại diện duy nhất, tiêu biểu nhất cho nền Văn hóa - Văn hiến Việt Nam
thông qua hệ thống văn hóa vật thể, phi vật thể trên nền tảng xã hội mà Huế
đang lưu giữ và tiếp tục phát triển ...". Kết luận này sau đó đã được Thủ
tướng Chính phủ thông qua .
Xin được mượn lời của một nhà sử học để kết thúc bài viết
này “ Thì vẫn còn đó một xứ Huế với những thanh tú của sông Hương núi Ngự,
những nét thanh lịch của phong cách sống ăn mặc ở, đi lại của con người thượng
kinh, những giai điệu độc đáo sâu lắng, tinh tế của giọng hò điệu hát trên sông
Hương... làm đối tượng cho văn học Việt Nam. Thì vẫn còn đó một xứ Huế với
những tổng thể di tích kiến trúc cung đình, tôn giáo, lăng mộ, dân gian...
Không đâu đầy đủ hơn và tập trung hơn, điển hình cho chúng ta cảmnhận và phân
tích về VẺ ĐẸP VIỆT NAM thế kỷ XIX về một NỀN NGHỆ THUẬT VÀ MỸ THUẬT THỜI
NGUYỄN CỦA VIỆT NAM.” (GS.Trần Quốc Vượng ) .
20/01/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét