Tại sao Liên Xô không công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian 1945 – 1949 ?

Churchill, Truman Stalin tại Đức (từ 16 tháng 7 đến 2 tháng 8 năm 1945.)

Đây là một trong những câu hỏi khá tế nhị trong quan hệ VN – Liên xô trước đây cần phải được làm rõ. Một thời gian dài trước đây khi mối quan hệ này đang nồng ấm và nhà nước Liên Xô đang tồn tại thì đây là một câu hỏi không ai dám hỏi và tất nhiên sẽ không bao giờ có câu trả lời !

Đó là lý do tại sao nhà nước Liên Xô không công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian 1945 – 1949; mà mãi tới ngày 30 tháng 1 năm 1950 mới công nhận ?

Chỉ sau khi Liên Xô và khối Đông Âu sụp đổ (1991), nhiều học giả VN đã bắt đầu tìm cách lý giải vấn đề này để tìm ra một trong những bí mật của thời chiến tranh lạnh.
 Đã có một vài lý giải khá đơn giản được đưa ra. Một vài học giả cho rằng sau chiến   
thắng của Liên Xô trước phe phát xít (1945), khối Đông âu đã hình thành; Liên xô đang tăng cường giúp đỡ các nước trong khối để củng cố sức mạnh của mình ở  phía Tây làm đối trọng với phe Anh – Mỹ. Cho nên vào thời kỳ này đối với Liên Xô thì Việt Nam (VN) chỉ là một quốc gia nhỏ bé, chưa có vị thế ở khu vực Đông Nam Á. Liên Xô chưa tin tưởng vào thành quả cách mạng ở VN; nhất là sau khi Đảng Cộng Sản Đông Dương phải tự tuyên bố giải tán và lui vào hoạt động bí mật (ngày 11 tháng 11 năm 1945).

Nhưng sự thật không phải như vậy !

Sau khi những tài liệu bí mật của mối quan hệ VN – Liên xô trước đây mới được phía Nga bạch hóa, đã cung cấp cho chúng ta biết được một trong những bí mật của thời kỳ chiến tranh lạnh. Thật ra phía Đảng CS Liên xô đã tích cực ủng hộ Đảng CS VN suốt trong thời gian từ khi Đảng ra đời (1930) cho tới năm 1945, đa số các lãnh tụ tiền khởi nghĩa của VN đều được đào tạo tại Liên Xô sau đó được tung về nước qua ngã Trung Quốc để lãnh đạo cách mạng VN.

Nhưng từ khi tham gia phe đồng minh (chủ yếu là 03 nước lớn Mỹ, Anh, Liên xô), sau đó cùng phe đồng minh chiến thắng trước phe Trục (Đức – Ý – Nhật); Stalin và Liên Xô đã buộc phải ký với các đồng minh một số thỏa ước ràng buộc để nhận được viện trợ quân sự và lương thực của Anh – Mỹ, cũng như yêu cầu Anh – Mỹ mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu nhằm chia la cho Liên Xô trước sức tấn công như vũ bảo của phát xít Đức vào lãnh thổ Liên Xô.
Sau chiến thắng trước phe Trục, Liên Xô đã bị ràng buộc bởi các thỏa thuận này kể cả các thỏa thuận về việc phân chia khu vực đóng quân và khu vực ảnh hưởng sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Trong giới hạn của bài viết, tôi sẽ dẫn chứng và chứng minh một chuỗi sự kiện có thật (nhưng không phải ai cũng biết ?) trong lịch sử hiện đại VN giai đoạn 1945 - 1949.

Đoàn người biểu tình ngày 19 tháng 8 năm 1945 trước cửa Bắc Bộ phủ, Hà Nội

Giai đoạn này quyền định đoạt vận mạng của đất nước ta nằm trong tay người nước ngoài. Đồng thời đây cũng chính là giai đoạn lịch sử mà rất nhiều sử sách đã nhầm lẫn khi nhận định và đánh giá sự kiện !

Theo đó, sau khi Chiến tranh thế giới lần II kết thúc, những nước thắng trận dẫn đầu là Mỹ, Anh, Liên xô (mà ta thường gọi là các nước Đồng Minh) đã ban hành một số chính sách đối với các vùng đất vốn là thuộc địa bị phát xít Nhật chiếm đóng ở Viễn đông trước và trong thế chiến thứ II. Trong các chính sách đó có 02 điểm đáng chú ý nhất, vì nó có liên quan đến VN: 
1/- Các thuộc địa này, sau thời điểm Nhật tuyên bố đầu hàng (15/8/1945), sẽ do Đồng Minh ủy nhiệm lực lượng quản trị tạm thời một thời gian, sau đó trao trả độc lập cho chính phủ bản địa hợp pháp - hợp hiến. 
2/- Trong trường hợp quốc gia thuộc địa nào đã từng hiện hữu chính phủ bản địa hợp pháp & độc lập TRƯỚC KHI Nhật xâm lược sẽ được giao trả ngay độc lập cho quốc gia ấy.

Với quy định này phe Đồng Minh đã giao trả ngay đất nước Trung Hoa cho chính thể "Trung Hoa dân quốc" của Tưởng Giới Thạch, vì đây là thể chế độc lập đã hiện hữu trước khi Nhật xâm lược (thuộc vào trường hợp 2). 
Trái lại nước (thể chế) "Mãn Châu quốc" - được thành lập dưới thời người Nhật chiếm đóng, chứ không phải xuất hiện trước khi Nhật xâm lược nên không được Đồng Minh thừa nhận, mà giao lại cho Trung Hoa dân quốc (Mãn Châu đã thuộc về Trung Hoa dân quốc sau cách mạng Tân Hợi 1910 lật đổ nhà Thanh).
Riêng trường hợp của VIỆT NAM ?
1/. Trước khi Nhật xâm lược, VN là thuộc địa của Pháp (không hiện hữu một chính phủ bản địa độc lập). 
2/. Chính phủ "Đế quốc VN" của ông Trần Trọng Kim thành lập vào tháng 3/1945, với sự cố gắng của một số nhân sĩ yêu nước và các nhà chính trị VN lúc ấy là nỗ lực giành độc lập cho người VN. Tuy nhiên chính phủ này ra đời dưới thời người Nhật chiếm đóng, cũng tương tự như "Mãn Châu quốc", nên rơi vào trường hợp 1. 
3/. Trái lại Chính phủ "VNDCCH" của chủ tịch Hồ Chí Minh được tuyên bố ra đời ngày 02.9.1945 tuy là có tổ chức bầu cử, được nhân dân ủng hộ… nên theo lẽ thông thường là chính phủ hợp hiến. Nhưng lại xuất hiện SAU thời điểm Nhật đã đầu hàng Đồng Minh là ngày - 15/8/1945, do đó phe Đồng Minh đã không công nhận chính phủ này và vẫn áp dụng chính sách ủy nhiệm quản trị tại VN. 

Nguyễn Ái Quốc (người ngồi giữa) và cố vấn Vĩnh Thụy tại Hà Nội năm 1945

Cho nên, sau đó tuy chủ tịch Hồ Chí Minh với chính sách ngoại giao khéo léo và mềm dẻo của mình đã tuyên bố là đứng về phía Đồng Minh chống Nhật, nhưng Đồng Minh vẫn không thừa nhận chính phủ "VNDCCH" của chủ tịch HCM là chính phủ hợp pháp.
Đây mới chính là sự thật lịch sử, sự thật này đã được lưu lại trong những tài liệu, sử sách của phe Đồng Minh, của Hội Quốc Liên (Liên Hiệp Quốc) và những nước có liên quan như Anh, Pháp, Mỹ, Trung Hoa… khá rõ ràng và chính xác; nên không thể có ai đó tự vẽ ra lịch sử khác với thực tế lịch sử này được !

Vấn đề còn lại là do quan điểm chính trị của những người Việt trong một thời gian dài sau đó là khá khác nhau; nên đã dẫn đến cách nhìn nhận diễn trình lịch sử thiếu khách quan, rối rắm. 

Nhưng nếu ai đó muốn có một góc nhìn thực sự khách quan trong cách nhìn nhận lịch sử của giai đoạn này, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy một sự thật là:
- Trước năm 1858, VN là một quốc gia độc lập, toàn vẹn lãnh thổ. Dưới thời nhà Nguyễn (1803-1945) – VN là một nước lớn và khá hùng mạnh tại khu vực Đông Nam Á. Khi người Pháp bắt đầu xâm lược VN (1858) cho tới khi triều đình nhà Nguyễn bị buộc phải ký Hòa ước Nhâm Tuất (1868) cắt 3 tỉnh miền Đông cho Pháp; nước VN bị Pháp đô hộ dưới các hình thức bảo hộ và thuộc địa cho tới tháng 3/1945. 
- Tháng 3/1945 cho đến tháng 8/1945: Nhật đảo chính Pháp và cai trị toàn bộ VN cho đến ngày Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh 15/8/1945.
- Từ tháng 8/1945 cho đến hết năm 1949: Việt Nam trở thành xứ sở được cai quản theo ủy nhiệm của Đồng Minh. 
Theo đó, miền Bắc do Trung Hoa dân quốc cai quản (tức là quân đội của Tưởng Giới Thạch), miền Nam do Anh quốc cai quản. Nhưng sau đó người Pháp đã có những thao tác ngoại giao để cuối cùng buộc được quân Trung Hoa lẫn Anh quốc rút khỏi VN, giao lại cho Pháp cai trị ủy nhiệm.

Ở đây, mọi người hãy lưu ý là từ tháng 8/1945 tới hết năm 1949, người Pháp cai quản VN theo danh nghĩa ủy nhiệm của Đồng Minh chứ VN không còn danh nghĩa thuộc địa của Pháp như trước đây. Không còn chức danh Toàn quyền Pháp, mà chỉ là Cao ủy (của Liên hiệp quốc); đội quân thực dân (Pháp) trở thành quân đội của Liên Hiệp quốc.
Từ lưu ý này chúng ta đã có câu trả lời và đã cho chúng ta biết tại sao một thời gian dài từ khi chính phủ VNDCCH ra đời (9/1945) cho tới hết năm 1949 - chính phủ Liên Xô, (kể cả chính phủ Trung Quốc) lúc bấy giờ đã không công nhận chính phủ VNDCCH của Hồ Chí Minh là chính phủ hợp pháp! 

Vì chính sách ủy nhiệm quản trị đối với VN là quyết nghị chung của Đồng Minh (gồm Mỹ, Anh, Liên Xô...) nên Liên Xô đã không thể "xé rào".

Khi chính phủ “VNDCCH” không được Đồng Minh thừa nhận chính thức, thì tất nhiên sẽ không được bất cứ quốc gia nào công nhận và đặt quan hệ bang giao chính thức trong giai đoạn cai quản ủy nhiệm của Liên Hợp Quốc (1945-1949).

Sau khi hất người Anh ra khỏi Đông Dương và xua đội quân Tàu -Tưởng về bên kia biên giới; người Pháp đã có những toan tính nhằm đưa VN trở lại hình thức thuộc địa, như một lãnh thổ hải ngoại của họ ở viễn đông. Tuy nhiên, thời thế đã đổi khác. 

Sau chiến tranh thế giới II, tổ chức quốc tế lớn nhất – Liên Hợp Quốc đã hình thành, thế giới đã bước vào kỷ nguyên giải trừ thuộc địa !”. Tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc các nước đã thúc đẩy và đã cho ra đời một nghị quyết cho việc chấm dứt chế độ thuộc địa. Nghị quyết yêu cầu các cường quốc thuộc địa Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha… trao trả độc lập cho các quốc gia bị họ chiếm đóng ở châu Phi, châu Á, châu Úc và châu Mỹ La tinh.
Chính lý do này và trước xu hướng mới trong chính trị thế giới, đã gây áp lực . Sau khi hết thời gian cai quản ủy nhiệm của Liên Hợp Quốc (1945-1949), người Pháp đã buộc phải trao trả độc lập cho người Việt Nam và một chính phủ của người VN đã được thành lập. 
Phủ Toàn quyền Pháp năm 1950

Đây là lý do của sự ra đời và tồn tại thể chế QUỐC GIA VIỆT NAM (từ 1949 đến 1955) của Quốc Trưởng Bảo Đại. 
Với quốc hiệu là "Quốc gia VN" (State of Vietnam), quốc gia non trẻ này tính đến đầu năm 1950 đã có 35 nước đặt quan hệ ngoại giao chính thức.



Ở một khía cạnh khác, những người nghiên viết sử cần phải biết là, khi giai đoạn ủy nhiệm cai trị của người Pháp, 1945-1949, chấm dứt. Về công pháp quốc tế, từ năm 1950 – nước VIỆT NAM đã xuất hiện trên bản đồ thế giới trong tư cách một quốc gia độc lập (qua Hiệp ước Élysée)! 

Từ đây dân tộc VN mới "danh chính ngôn thuận" có một chính phủ của người VN; hiện diện trên toàn cõi đất nước và được quốc tế công nhận (không phân biệt chính phủ đó là của ai, thuộc phe phái nào ?)! 
Tuy nhiên như chúng ta đều biết, sau khi chính phủ "Quốc gia VN" ra đời (1949), người Pháp đã dùng nhiều cách để duy trì ảnh hưởng và quyền lực của họ trên đất nước VN (kéo dài đến năm 1954).

Nhà hát lớn Hà Nội năm 1954

Lời kết
Hiện nay có một số học giả đã đưa ra nhiều nhận định khác nhau về lịch sử giai đoạn này của VN; tuy nhiên đa số các nhận định này là thiếu khách quan, một chiều và khá phiến diện nếu không muốn nói là cả một sự sai lầm.

Khi đọc những "bài viết" này tôi cũng đã cố ép mình hiểu rằng đây có thể là chủ đích một chiều của họ. Nhưng sau khi đọc kỹ tôi mới biết là họ hoàn toàn không có ý đồ muốn bẻ cong ngòi bút vì một lý do nào đó; mà đơn giản là họ không có tư liệu lịch sử, họ không có kiến thức chuyên môn để viết sử và nhận định lịch sử nhưng vẫn cứ nhắm mắt viết … bừa.

Vì cái gọi là “kiến thức lịch sử” ở đây chỉ là việc họ chép lại nguyên văn một sự kiện lịch sử từ một cuốn sách chính thống nào đó, hay sao y nguyên văn lời kể của một nhân vật từng tham gia sự kiện lịch sử mà họ cần biết. Sau đó căn cứ vào những gì ghi chép được họ đưa ra những nhận định và đánh giá sự kiện lịch sử đó theo ý kiến chủ quan của mình. Nhưng sẽ rất nguy hiểm là nếu người viết không có kiến thức chuyên môn sâu thì sẽ dễ dàng dẫn đến việc có những nhận định sai về một sự kiện lịch sử, nhất là lịch sử cách mạng VN. Cũng bởi lịch sử không đơn thuần chỉ là một câu chuyện kể mà nó còn cần có những nhận định và đánh giá lịch sử một cách chính xác của người viết sử và người đọc sử.

Khi đọc bài này, có thể có ai đó cho rằng - đây chỉ là câu chuyện thuần về chuyên môn; nhưng nếu không có chuyên môn mà dám nhận định một sự kiện lịch sử thì nó có thể dẫn đến những nhận định sai lầm về sách lược chính trị, ngoại giao. Và sau đó sẽ kéo theo hàng loạt những sai lầm về kinh tế, văn hóa - xã hội khác…/.

Đà Nẵng, 26/01/2017

ĐKT

Vì sao người quân tử không tranh cãi với kẻ tiểu nhân?

Không tranh cãi với kẻ tiểu nhân Khổng Tử có một cậu học trò rất thích tranh luận. Một hôm, người học trò này đến thăm Khổng Tử t...