LƯỢC SỬ GIÁO PHẬN BAN MÊ THUỘT


Tòa Giám Mục Giáo phận Ban Mê Thuột

GIÁO PHẬN BAN MÊ THUỘT

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ ĐIẠ LÝ
Trở về thời xa xưa, vùng đất thuộc Giáo phận Ban Mê Thuột ngày nay là nơi định cư của ba sắc tộc chính: Dân tộc Êđê ở vùng Đăklăk, dân tộc M’Nông ở Quảng Đức (Đăk Nông) và vùng Phước Long có dân tộc S’Tiêng. Cả ba sắc tộc đều có thổ ngữ riêng. Họ thờ rất nhiều Thần linh, gọi chung là “Yang”.
Trước thời Pháp thuộc, Triều đình Việt Nam không mấy quan tâm đến vùng đất Cao nguyên này, nên ở đây chưa có cơ cấu hành chánh. Năm 1893, người Pháp lên chiếm đất ở vùng Đăklăk và đã xảy ra những cuộc xung đột đẫm máu với các bộ tộc người Êđê. Đến năm 1923, người Pháp đặt tỉnh Đăklăk dưới quyền cai trị của Công sứ Sabatier. Vào thời này, người Kinh không được phép đi lại và cư trú tại đây.
Năm 1910, một chuyên viên khảo sát người Pháp là Henri Maitre và Đội quân Viễn chinh Pháp đã đặt chân đến vùng Tây Nam Cao nguyên (Quảng Đức, ĐăkNông). Họ thẳng tay đàn áp những bộ tộc người M’Nông không hàng phục. Năm 1932, người Pháp đặt cơ sở hành chánh tại ĐăkMil. Năm 1950 thì chuyển qua Đăk Song, và năm 1952 thì Đăk Song trở thành Quận của tỉnh Đăklak. Năm 1959, quận Đăk Song được tách khỏi tỉnh Đăklăk để trở thành phần đất chính của tỉnh Quảng Đức (vùng Đăk Nông hiện nay).
Còn đất Phước Long, vào thế kỷ 17, thời Chúa Nguyễn Phúc Chu là huyện Phước Long, có Dinh Trấn biên để bảo vệ địa đầu biên giới. Vùng đất này có đồng bào S’Tiêng sinh sống. Năm 1929, người Pháp mở Quốc lộ 14 ngang qua đây để bình định các buôn làng. Năm 1957, quận Sông Bé được tách khỏi tỉnh Biên Hòa và quận Bố Đức (Bù Đốp) tách ra khỏi tỉnh Thủ Dầu Một để lập thành tỉnh Phước Long. Ngày nay, Phước Long thuộc tỉnh Bình Phước.
Giáo Phận Ban Mê Thuột nằm trong địa giới hành chính của ba tỉnh Đăklăk, Quảng Đức và Phước Long (trước 1975). Còn bây giờ là Đăklăk, Đăk Nông và một phần gồm Thị xã Đồng Xoài và 4/7 số huyện của tỉnh Bình Phước.
II. LƯỢC SỬ GIÁO PHẬN
Phần này được viết khá chi tiết để quí độc giả hiểu: Việc truyền giáo cho anh em sắc tộc tại Cao nguyên rất cực nhọc, và đòi hỏi phải có lòng kiễn nhẫn như thế nào. Sự hình thành giáo phận Ban Mê Thuột là kết quả của công cuộc truyền giáo này.
A. SỰ HÌNH THÀNH GIÁO PHẬN
1. Bước đầu khai sinh
Có thể nói, từ một nơi hoang sơ, rừng thiêng nước độc, cư dân chỉ là những sắc tộc bản địa, chưa một bước chân của người Pháp đến khai thác, hay người An Nam đến tìm hiểu vùng đất mới để sinh sống thì đã có những bước chân âm thầm của hai nhà truyền giáo bắt đầu tập ăn chung, ngủ chung với người sắc tộc bản địa.
Vào năm 1847, cha Fontaine Khâm, Hội Thừa sai Paris (MEP) đến thăm viếng các anh em sắc tộc M’Nông gần buôn Yeng Drôm, nằm giữa Đakmil, một huyện thuộc tỉnh Đak Nông ngày nay và Bản Đôn, một huyện thuộc tỉnh Đăklăk ngày nay.
Năm 1850, cha Hòa thuộc Kontum thời Đức cha Cuénot Thể, cũng thử đến rao giảng Tin Mừng cho anh em dân tộc bản địa gần đầu nguồn sông Đồng Nai, trên đường đi Djiring.
Nhưng cả hai cùng thất bại, nên rủ nhau lên truyền giáo vùng Kontum. Cha Hòa là cha sở đầu tiên của họ đạo Kontum, qua đời tại Ninh Hòa năm 1861. Cha Khâm giảng đạo quanh vùng Kontum, sau này về Pháp và mất tại đó. Lịch sử Giáo phận Kontum không ghi lại rõ các cha đã ở lại vùng đất Đồng Nai và Đăklăk bao lâu. Nhưng đây là dấu son đầu tiên tô điểm cho công cuộc truyền giáo tại vùng đất, nay thuộc Giáo phận Ban Mê Thuột.
Một thời gian dài gần 80 năm sau thất bại trên, khoảng năm 1926 – 1927, có hai người ngoại quốc là gia đình ông bà Maillot người Pháp và ông Ruyter người Hà Lan - theo đạo Tin Lành -, khẩn khoản xin Đức cha Giáo phận Qui Nhơn đến vùng đất Ban Mê Thuột lập họ đạo. Vì trong các đồn điền người Pháp cai quản hiện có hơn 100 bổn đạo Công giáo. Hơn nữa, hai ông đã đến tận giáo xứ Plei Pơo, phía đông núi Hàm Rồng, cách Pleiku 13 km để xin cha Cẩn lo liệu cho anh em giáo dân. Mọi chi phí di chuyển hai ông sẽ lo. Ở đây ta nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa. Hai ông chủ đồn điền thì nhắm mục đích kinh tế. Nhưng Chúa lại biến thành cơ hội cho Nước Trời phát triển.
Năm 1928, chớp thời cơ thuận tiện và để đáp ứng thiện chí của hai người ngoại quốc trên, trong đó có một người Tin Lành, Đức cha Grangeon Mẫn, Giám mục Giáo phận Qui Nhơn (chưa chia các Giáo phận Kontum 1932, Nha Trang 1957, Đà Nẵng 1963, và Ban Mê Thuột 1967), với một diện tích quá mênh mông, hơn 90.000 km¬¬2, hơn 70.000 bổn đạo. Trong khi đó, con số linh mục chỉ khoảng 39 linh mục thừa sai và 80 linh mục Việt Nam, chưa kể có hơn 20 linh mục làm công tác quản lý, tuyên úy và giáo sư Chủng viện. Trước tình cảnh này, Đức cha Grangeon Mẫn, Giám mục Giáo phận Qui Nhơn đã viết thơ xin Đức cha De Guébriant, Bề trên Hội Thừa sai Paris gởi thêm linh mục mới, để có thể thành lập họ đạo ở Ban Mê thuột.
Có thể nói vùng đất Ban Mê thuột là lãnh thổ riêng của ông Công sứ Sabatier, ông chỉ cho phép người ngoại quốc lên khai thác đồn điền và chiêu mộ dân An Nam làm công nhân (coolie). Ngoài ra, các thành phần khác rất khó mà vào nếu không có phép của ông công sứ. Vì lẽ đó, cha Labibiausse Sáng, cha Chính Giáo phận Qui Nhơn, và cha Janin Phước, cha chính Kontum, dự định đến Ban Mê Thuột để nghiên cứu tình hình giáo dân và địa thế xây dựng họ đạo. Cũng như tiếp xúc với gia đình ông Maillot và ông Ruyter không dễ dàng. Một phần do công việc bề bộn của các đồn điền, một phần vì ông bà Maillot và Ruyter cũng như của ông Monteil trong năm 1928 không thể tổ chức tiếp đón hai cha nên sứ vụ của hai cha bị ngưng lại.
Vào tháng 3 năm 1929, vợ chồng ông Maillot và Ruyter đến tận Plei Pơo để gặp cha Nicolas Cận, trước tiên cáo lỗi vì đã không tạo điều kiện cho hai cha chính đến thăm mục vụ; sau đó là trình bày việc ông Ruyter - người Tin Lành -, muốn dâng cúng tất cả kinh phí để thành lập một họ đạo ở đồn điền CADA, nơi có hơn 100 công nhân Công giáo. Cùng một lòng với ông Ruyter, gia đình ông Maillot cũng muốn dâng hiến một phần đất đồn điền của gia đình ông gần trung tâm Ban Mê Thuột (sau này là Trung tâm Công giáo Thượng của cha Bianchetti Bạch) để lập họ đạo chính. Hai ông mời cha Nicolas Cận đến Ban Mê Thuột, cha Nicolas Cận nhận lời. Ông Ruyter hứa sau lễ Phục sinh năm 1929, sẽ cho xe lên đón cha Nicolas Cận tại Plei Pơo. Nhưng lời hứa cũng không được thực hiện.
Đến năm 1930, vì nhiều lý do, cha Janin Phước không đi thăm Ban Mê Thuột được. Để giữ mối quan hệ với những người Pháp và chính quyền thời bấy giờ, ngài đã gởi tặng những cuốn sách: “Les Sauvages Bahnars” của cha bề trên Dourisboure Ân, hay những cuốn như “Emigration An Namite”, “Une voie déblayée”… Một món quà đã để lại ấn tượng sâu sắc cho các gia đình người Pháp và các quan chức.
Sang năm 1930, ông Lê Đức Cầu, một giáo dân, viết thư cho cha Janin Phước thuật lại công việc của ông sau chuyến đi Nha Trang, trong đó có việc ông khẩn khoản xin cho Ban Mê Thuột một cha sở, vì nhiều giáo dân chết mà không gặp được linh mục. Hơn nữa, ông Công sứ Pháp đã đổi đi nơi khác. Ông mới về có lòng đạo đức tốt, rất sùng đạo. Ông viết: “Trong một lần đến nhà con chơi, con đã lợi dụng cơ hội nói về việc làm nhà thờ. Ông Tân Công sứ nói cho con biết là tỉnh Ban Mê Thuột mới thành lập, sẽ có họ đạo và xây dựng nhà thờ tại một địa điểm tốt.”
Ông Cầu cũng cho biết ông sẽ đi Làng Sông gặp Đức cha để xin lập họ đạo ở Ban Mê Thuột.
Ngày 05.10.1933, ông Phán Nguyễn Văn Thanh, Thư ký Toà sứ Ban Mê thuột viết thư hỏi ý kiến Đức cha về việc làm nhà thờ. Trong thư, ông viết: “Con là người Công giáo, khi đến Ban Mê Thuột, không thấy nhà thờ, con quá đau lòng.” Ông cho Đức cha biết thêm là bổn đạo ở Ban Mê Thuột đã quyên góp được 300 đồng để làm nhà thờ.
Xúc động trước lòng đạo đức và sốt sắng của “bổn đạo An Nam” tại Ban Mê Thuột, Đức cha đã viết thư trả lời: “Theo nguyên tắc, việc lập nhà thờ và mở họ đạo tại Ban Mê Thuột là đúng và hợp lý. Nhưng bổn đạo ở đây phải đồng tâm hiệp ý cố gắng giữ vững đức tin. Vì việc thành lập họ đạo luôn luôn bị cản trở.”
Với “lòng nhiệt thành nhà Chúa”, giáo dân Ban Mê Thuột làm áp lực lên Đức cha để xin một cha sở. Đức cha liên tiếp nhận được thư của bổn đạo nơi đây. Và ngài quyết định sẽ đến Ban Mê Thuột một lần, để xem xét tình hình và để quyết định những công việc phải làm.
Trong nhật ký của Đức cha Janin Phước Giáo phận Kontum có ghi lại chuyến đi kinh lý Ban Mê Thuột. Có thể thấy, sự quan tâm lo lắng của Đức cha đối với Ban Mê Thuột, và vấn đề phát triển họ Đạo Ban Mê Thuột là rất cấp bách và cần thiết.
Ngày 28.1.1934, Đức cha đánh điện xin Toà Công sứ Ban Mê Thuột giữ trước hai phòng khách sạn cho phái đoàn Đức cha Kontum kinh lý Ban Mê thuột. Phái đoàn bắt đầu rời Toà Giám mục Kontum do cha Crétin Xuân lái xe, đi Pleiku đón cha Corompt Hiển và đến giáo xứ Plei Pơo đón cha Ban, chuẩn bị hôm sau đi Ban Mê Thuột.
Ngày 29.01.1934, sau khi dâng lễ, Đức Cha Jannin Phước, Giám mục Kontum dẫn một phái đoàn đến Ban Mê Thuột để nghiên cứu tình hình và chọn địa điểm cho một cơ sở Công giáo tương lai. Khởi hành từ 6giờ 30 sáng, đến 3 giờ chiều thì phái đoàn đến trung tâm Ban Mê Thuột. Phái đoàn đến Toà Công sứ và được các ông trong Toà Công sứ đón tiếp nồng hậu.
5 giờ chiều, phái đoàn đến thăm ông Destenay, Công sứ Daklak tại nhà riêng, và thăm ông Quản đạo vì ông này là người Công giáo, và là người tổ chức cuộc đón tiếp lúc 6 giờ chiều. Cuộc đón tiếp quá long trọng tại Văn phòng ông Quản đạo với cờ quạt và pháo nổ râm ran. Trong buổi đón tiếp, chỉ khoảng 10 người Công giáo hiện diện, vì nếu mời đầy đủ thì bổn đạo ở các đồn điền xa sẽ gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba ngày 30.1.1934, tại khách sạn Maury (nay là khu Thăng Long, đường Lê Duẩn, BMT), có một phòng lớn còn trống, cha Crétin Xuân đã dọn dẹp sạch sẽ và dọn bàn chuẩn bị dâng thánh lễ chính thức đầu tiên trên mảnh đất Ban Mê Thuột. Cha Ban giảng lễ. Có khoảng 12 người Công giáo An Nam đến xưng tội, dự lễ và rước lễ. Sự kiện này đánh dấu sự có mặt chính thức của Giáo hội Công giáo trên vùng đất mới này.
Sau thánh lễ, phái đoàn đi thăm xã giao các cơ quan chính quyền và tham quan Ban Mê Thuột. Buổi chiều, phái đoàn Tòa Giám mục Kontum đi thăm đồn điền CADA, nơi có đông đảo công nhân là người Công giáo.
Ngày 31.1.1934, thánh lễ thứ hai được cử hành tại khách sạn. Hôm nay, đích thân ông Công sứ Destenay hướng dẫn phái đoàn đi thăm các nơi có tiếng tăm, các cơ sở nòng cốt của Ban Mê Thuột, như: Nhà đèn (Nhà máy điện ngã tư Nguyễn Công Trứ - Lê Duẩn, BMT), Thác Nhà đèn (Buôn Kơsir) nơi sản xuất và cung cấp điện cho Ban Mê thuột của ông Bourgery, Hồ chứa nước uống cho cư dân Ban Mê Thuột (nay là nhà máy nước). Ông cũng đưa phái đoàn đi tham quan Trường học Pháp – Rhadé. Đây là nơi phái đoàn dừng chân lâu nhất, và thăm Lao xá Ban Mê Thuột (nay là sân tennis Sở Công An Daklak), đi tham quan các buôn làng Alê của người sắc tộc bản xứ.
Buổi chiều, phái đoàn đi dạo với mục đích tìm một khu đất để thành lập họ đạo. Sau khi xem nhiều nơi, phái đoàn chọn khu đất nằm ngay tam giác trên đường đi Kontum và đường Méwal (đường Phan Chu Trinh ngày nay) trước khi vào thị xã Ban Mê Thuột. Khu đất giáp làng An Nam và gần nhà ở của người Pháp.
Trong cuộc tiếp chuyện, ông Công sứ thông báo cho phái đoàn biết có ba Mục sư Tin Lành ở Mỹ vừa đến, và một người tới trước đang đi sâu vào các vùng lân cận, các mục sư này đã bước nhanh chân hơn. Vậy phải lập cơ sở tại đây gấp rút.
1.2.1934. phái đoàn rời Ban Mê Thuột về Kontum mà lòng se sắt khi nghĩ đến đông anh em sắc tộc nghèo khổ, đang sinh sống tại các buôn làng nằm rải rác trong những cánh rừng mênh mông heo hút của Ban Mê Thuột.
2. Thành lập Giáo họ Banmêthuột: 15.8.1934
Khu đất được chọn để thành lập Giáo họ là một khu rừng thuộc đất quy hoạch, được ông Desteney, Công sứ Pháp nhường cho Địa phận Kontum. Nhưng giấy tờ chưa được ký thì viên Công sứ Pháp này phải chuyển đi làm Công sứ tỉnh Thừa Thiên...
Sau đó, Đức Cha Jannin nhờ Thầy Hiền, một cựu Thầy giảng có gia đình thuộc Giáo phận Qui Nhơn, Thầy Hiền trước đây thuộc Hội Thầy giảng (Catéchiste) do Cha Đắc Lộ lập ra, nguyên quán ở Họ đạo Mang Yang (theo tiếng dân tộc địa phương gọi là Cửa Trời) đi giúp lập Họ đạo Ban Mê Thuột. Thầy đến nhiệm sở ngày 15.5.1934. Thầy và bổn đạo Ban Mê Thuột cùng đồng tâm nhất trí cất Nhà nguyện Giáo họ. Nhưng công trình không thể bắt đầu vì đất đai chưa có giấy phép, do thông cáo số 187-CA ngày 15.3.1934 của Tòa Khâm sứ Trung kỳ (Pháp) tại Huế, đình chỉ tất cả việc cấp đất thành phố cho bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào, và phải đợi chỉ thị mới của Phủ Toàn quyền Đông Dương...!
Đức Cha Jannin lại đưa Thầy Hiền qua Ban Mê Thuột lần nữa để tiếp xúc với đồng bào Êđê, học tiếng và dạy đạo cho họ. Nhưng công việc lại bị cản trở vì thông cáo số 3614 ngày 15.11.1930 của Tòa Khâm sứ Trung kỳ cấm truyền đạo cho người Thượng trong tỉnh Đăklăk cho đến khi có chỉ thị mới!
Tuy có lệnh cấm cấp đất thành phố, nhưng bổn đạo Ban Mê Thuột cứ nôn nóng làm Nhà nguyện trên khu đất đã nhường cho Giáo phận Kontum, dù chưa có giấy tờ chính thức... Và ngày 15.8.1934, một Nhà nguyện mái tranh vách đất đã được dựng lên. Năm 1959, Thầy Hiền thay mặt Giáo phận Kontum hướng dẫn Bổn đạo dựng lại nhà thờ bằng gỗ sao. Đến năm 1965, các Nữ tử Bác Ái Vinh Sơn đã xây một Nhà nguyện mới trên nền Nhà nguyện tiên khởi này. Hiện nay nó thuộc phạm vi của Trường Trung học cơ sở Phan Chu Trinh.
3. Thành lập Giáo xứ Banmêthuột: 30.3.1937
Nhà nguyện Họ đạo Ban Mê Thuột tuy được xây cất bất hợp pháp, nhưng Công sứ tỉnh Đăklăk là ông Henri Gerbinis và ông Trương Kỳ, quan An nam đầu tỉnh đã nhắm mắt làm ngơ, vì cả hai ông đều là người Công giáo. Trong khi đó Đức Cha Jannin vẫn tất bật ngược xuôi để lo liệu giấy tờ hợp pháp cho thửa đất đó. Sau hơn bốn năm trời đơn từ đi lên đi xuống, cuối cùng Tòa Khâm sứ Trung kỳ mới chấp thuận giải quyết cho Đức Cha được mua khu đất trên với giá 2 xu (0.02 đồng) một mét vuông. Quyết định cấp đất này do ông Graffeuil, Khâm sứ Trung kỳ ký, số 195/942, ngày 29.11.1938. Và ngày 16.12.1938, Tòa Giám mục Kontum đã trả 201 đồng để mua 10.050 m2 đất. Như vậy không phải là “Đối với Chánh phủ bảo hộ do các quan Tây cầm đầu, mấy ông cố Tây xin gì mà không được”! như một số đồng bào khác đạo thời ấy suy nghĩ.
Trong thời gian Ngôi nhà nguyện cất lên bất hợp pháp trên khu đất chưa có giấy phép, tình cảnh rất bấp bênh, vì có thể bị triệt hạ bất cứ lúc nào. Dù vậy, Đức Cha Jannin, Giám mục Giáo phận Kontum lúc ấy vẫn tin tưởng, Ngài viết thư cho Công sứ Đăklăk biết quyết định của Tòa Giám mục Kontum về việc nâng Giáo họ Ban Mê Thuột lên hàng Giáo xứ, và việc bổ nhiệm một linh mục “An Nam”: Cha Phêrô Nguyễn Đức Cẩn làm Cha sở. Ngài còn viết thư cho ông Lê Đức Cầu, Câu họ Ban Mê Thuột, chuẩn bị đón tiếp Cha sở mới.
Ngày 30.3.1937, Đức Cha Jannin Phước, Giám mục Địa phận Kontum, tuyên bố nâng Giáo họ Ban Mê Thuột lên hàng Giáo xứ, và chủ tọa lễ tựu chức của Cha sở tiên khởi Phêrô Nguyễn Đắc Cẩn.
Nhà xứ được Đức Cha chỉ dẫn làm theo kiểu nhà sàn dân tộc, nhà này đã tồn tại suốt từ năm 1937 đến tháng 8 năm 1994 thì được tháo dỡ để xây cất trường học mới.
Về phần Cha Cẩn, sau vài tháng phục vụ, do không hợp thủy thổ, ngài bị bệnh sốt rét và thương hàn. Ngày 12.01.1938, Cha trở về Tòa Giám mục để chữa bệnh. (Ngài mất năm 1982 sau 60 năm làm linh mục). Trong thời gian này, Giáo xứ Ban Mê Thuột không có linh mục suốt 4 năm rưỡi vì thời cuộc lúc ấy và cũng vì Đức Cha Jannin Phước qua đời (ngày 14.7.1940 tại Kontum, hưởng thọ 73 tuổi với 42 năm linh mục và bảy năm Giám mục).
Ngày 22.4.1942, Tòa Thánh bổ nhiệm Đức cha Sion Khâm làm Giám mục Kontum. Ngài nhậm chức tháng 5.1942. Hai tháng sau Giáo xứ Ban Mê Thuột có Cha sở mới: Đó là Cha Romeuf Phương. Ngài được bổ nhiệm ngày 26.7.1942.
Việc trước tiên của cha Romeuf là xin phép mở trường tiểu học dạy các em trong Xóm Đạo và thị xã. Đơn xin được ty Học chánh Pháp thuộc chấp thuận và Tòa Công sứ chuẩn y cấp giấy phép. Cha Romeuf là hiệu trưởng đầu tiên (nay là Trường THCS Phan Chu Trinh). Trường mở vào niên khóa 1947-1948. Học sinh thị xã cả lương lẫn giáo độ 30 em. Học phí mỗi tháng một đồng. Miễn phí cho các em quá nghèo.
Đây là ngôi trường đầu tiên sau tháng 3.1945 của thị xã Ban Mê Thuột cho học sinh Việt Nam. Trước khi Nhật cướp chính quyền năm 1945, Ban Mê Thuột cũng có trường tiểu học. Trường này biến thành rạp chiếu bóng cho đến 1955 mới mở lại, với tên là Trường Nguyễn Công Trứ.
Trường Công giáo Ban Mê Thuột vẫn tiếp tục mở các lớp cho đến ngày trao cho các Sư huynh Lasan điều khiển.
Đến nhận xứ Ban Mê Thuột, Cha Quản xứ Romeuf hết mình chăm lo cho đời sống đức tin giáo dân Ban Mê Thuột. Ngài còn xây trường học, mở mang đường xá, thiết lập làng ấp như: làng Phương Danh dành cho người Công giáo, làng Kim Sa của người Phật giáo.
XÓM ĐẠO – LÀNG AN NAM
Trước 1945, Ban Mê Thuột được coi là nơi ma thiêng nước độc. 60% đàn ông bị sốt rét rừng, đàn bà hợp thuỷ thổ hơn. Ban Mê Thuột là nơi đày các phạm nhân chính trị, nơi được sắp ngang hàng với Lao Bảo, Dak Tô, Trà My…, sau trại giam Côn Sơn.
Về diện hành chánh, đứng đầu tỉnh có một Công sứ Pháp (Résident de France) về phía Nam Triều có một ông Quản Đạo cai trị.
Người An Nam lúc bấy giờ, 80% là phu công các đồn điền của Pháp, 20% là công chức, tư chức, và một ít thương gia sống quây quần giữa thành phố, tập trung ở các đường Lê Lợi (nay Nguyễn Công Trứ) – Phan Bội Châu – Phan Chu Trinh và Tôn Thất Thuyết (nay là Lê Hồng Phong). Các người trong khu vực này đều được gọi là người “Làng An Nam”, mặc dù lúc bấy giờ đã có làng Lạc Giao với các Hương chức điều hành.
Xóm đạo gồm khuôn viên nhà thờ và các gia đình sống trên khu đất: Lê Thánh Tôn (đường Méwal) - Phan Bội Châu – Phan Chu Trinh (đường Kho Đạn) tới ranh giới khu Tòa Giám Mục và nghĩa trang Công Giáo (đường Lê Thánh Tôn). Số người sống trong Xóm Đạo này đếm được trên đầu ngón tay.
Xóm Đạo và làng An Nam tuy chỉ cách nhau khoảng hơn 300 thước, nhưng hai nếp sống rất khác biệt. Một bên thì nếp sống văn minh thành thị, một bên thì chỉ biết lam lũ làm ăn đầu tắt mặt tối… Toàn tỉnh Đăklăk lúc bấy giờ (1945), kể các nhân công đồn điền và ngoại kiều, chỉ có khoảng 4000 người. Bưu điện hiện nay là di tích còn lại của trước thời kỳ 1945, chỉ dung nạp tối đa cho khoảng 5000 người sử dụng.
LÀNG KIM SA, LÀNG PHƯƠNG DANH
Ý định của cha Romeuf là muốn chiêu dân lập ấp. Số đồng bào Công Giáo lúc bấy giờ còn ít ỏi song trong thâm tâm của ngài là sẽ lập một làng An Nam Công Giáo như những làng Công giáo lớn ở Trung Châu: Gò Thị – Gia Hựu, Trà Kiệu, Mằng Lăng, Hộ Diêm…
Địa điểm lập làng mới là ở phía bắc thị xã nằm trên các lô đất nay là đồn điền của Ama H’Rin, ông Lê Văn Triều và ông Nguyễn Đức Hường, vì đất này nằm dọc theo các con suối.
Đơn xin lập làng đã đến văn phòng Công sứ Darlac và đang được tòa hành chánh cứu xét để trình lên cấp trên ở Huế. Nhưng trên thực tế, cha Romeuf cũng chỉ cho bổn đạo địa điểm làng Công Giáo tương lai. Có một vài người đã ra chiếm đất cất nhà.
Làng Kim Sa và làng Phương Danh có thể thành hình được trong vài ba năm sau với giấy phép của chính quyền và ranh giới họa đồ hẳn hoi. Nhưng công việc đã gặp một cản trở rất lớn, kéo dài suốt mấy năm… Sau cùng cũng không thành công. Lý do là vì lúc bấy giờ, ông Tôn Thất Hối, thuộc hoàng tộc, được bổ nhiệm làm Quản đạo Chính phủ Nam Triều tại Đăklăk. Khi hay biết cha Romeuf xin phép chính phủ bảo hộ lập làng mới thì ông cũng đệ đơn về Bộ xin lập làng mới nữa. Chánh phủ Nam Triều và Tòa Khâm sứ Huế điều tra nghiên cứu mà không sao thỏa mãn được các đơn xin, bởi vì lúc bấy giờ tỉnh Đăklăk, ngoài các công nhân đồn điền, “người An Nam” kể cả công tư chức, thương kỹ nghệ gia, thường dân không đến 1000 người. (Thời ấy, công nhân đồn điền thì không có cách nào bỏ trốn đi nơi khác được).
Sau mấy năm tranh chấp giữa cha Romeuf và ông Quản đạo Tôn Thất Hối, việc lập làng An Nam mới tại Ban Mê Thuột có lệnh đình chỉ.
Để tranh thủ thời gian, cha Romeuf liền tiến hành thủ tục thành lập Họ đạo ở CADA, (CADA là tên gọi tắt của một công ty người Pháp khai thác đồn điền cà phê Compagnie agricole d’Asie), nằm hai bên Quốc lộ 21, đường đi Ninh Hòa, cách thị xã 24 cây số. Nơi đây tập trung bổn đạo là công nhân đồn điền ngay từ thời kỳ đầu năm 1928 – 1929. Hơn nữa, tình hình công nhân nơi đây quá cơ cực về mặt vật chất. Mặt tinh thần lại cơ cực hơn nữa, vì xa gia đình, xứ sở, xa vợ con, không người nâng đỡ, chia sẻ…, nên dù biết là lỗi với gia đình vợ con, song hoàn cảnh bắt buộc, nhiều người đã sống tình trạng gia đình bất hợp pháp.
Vào đầu năm 1948, cha Romeuf đi Nha Trang để xưng tội (lúc đó không có linh mục thứ hai nào ở Ban Mê Thuột), ngài có ghé thăm cha Nguyễn Quang Xuyên, cha sở Gò Muồng, Ninh Hòa. Cha Xuyên cho cha Romeuf biết có khoảng 15 gia đình Công Giáo Bắc Việt hiện đang làm ở Sở Canh nông thuốc lá và bông gòn, cách nhà thờ 8 cây số và cách quận Ninh Hòa bảy cây số. Hoàn cảnh sống rất khổ, ban ngày thì sợ “Tây bố ráp”, ban đêm thì sợ “Việt Minh quấy rầy”. Họ muốn đi nơi khác làm ăn.
Sau khi suy tính, thảo luận và dàn xếp với ông Noel Mercurio chủ đồn điền CADA, các anh em Công giáo này được vào làm sở cà phê. Họ gồng gánh lên CADA vào tháng 8.1948. Cha Romeuf xin chủ đồn điền cất cho họ một nhà nguyện có đầy đủ bàn ghế, để họ có nơi kinh nguyện và học giáo lý buổi tối. Mỗi Chúa Nhật ngài đến làm lễ.
Nhờ đời sống tập thể của 15 gia đình Công giáo Ninh Hòa mới lên; nhờ có đọc kinh chung mỗi tối ở nhà nguyện, nhờ có Thánh lễ Chúa Nhật mỗi tuần, họ lẻ CADA trở nên sầm uất. Đầu năm 1949, cha Romeuf cho thầy giáo về dạy chữ và dạy kinh bổn cho trẻ em và người tân tòng, thăm viếng các anh chị em khô khan, cũng như khuyên nhủ các gia đình rối năng đến nhà nguyện hơn, kinh lễ hằng Chúa Nhật.
Lòng hăng say và nhiệt thành của giáo hữu họ CADA tăng lên trông thấy. Cha chính Địa phận Kontum Renaud Ái về ban phép Thêm Sức cho 15 người lớn nhỏ, và sau cùng Đức Cha Sion Khâm về thăm, làm lễ cho họ CADA trong dịp ngài đi kinh lý Ban Mê Thuột năm 1950.
Với lương tâm Công giáo, anh em làm việc cho sở một cách tận tụy. Chủ đồn điền cũng như các ông cai, ông ký và anh em trong sở, có thiện cảm với anh em Công giáo hơn là ganh tỵ. Sau năm 1968, đồn điền CADA không còn được bảo đảm an ninh, một số gia đình Công giáo đi Ban Mê Thuột, một số khác đi Phước An tìm kế sinh nhai.
Có một điều may mắn là trong những năm chiến tranh sôi động (1945-1946), Nhà thờ và nhà xứ BMT vẫn còn nguyên vẹn, không bị đốt phá như các nhà trên các khu phố.
Số giáo dân tại Ban Mê Thuột thời ấy tăng nhanh do hai yếu tố: Chế độ “Hoàng triều cương thổ” và làn sóng di cư của đồng bào Bắc Việt vào Nam.
Chế độ “Hoàng triều cương thổ”: Đầu năm 1946, quân đội viễn chinh Pháp trở lại Việt Nam. Năm 1948, Vua Bảo Đại về nước, ông thường qua Pháp để bàn việc quốc sự nhưng khi về Việt Nam thì hay ở Ban Mê Thuột hơn là Kinh đô Huế. Nên, Cao nguyên Trung phần, đặc biệt là Đăklăk, được chọn làm “Đất của Hoàng đế” hay “Hoàng triều cương thổ” (Domaine de la Couronne). Ban Mê Thuột, do đó, tăng triển nhanh về nhiều mặt, công chức và quân đội được đưa lên cùng với gia đình, sau đó kéo theo cả họ hàng đến định cư.
“Đồng bào Bắc Việt di cư”: Sau Hiệp đinh Genève 21.7.1954, tỉnh Đăklăk có thêm rất nhiều đồng bào Miền Bắc di cư vào, đa số là giáo dân. Từ năm 1955, các trại định cư được thành lập như Kim Châu, Kim Phát, Giang Sơn, Đức Minh, Cung Kiệm, Hà Lan, Thọ Thành, Chi Lăng, Châu Sơn, Hưng Đạo, Trung Hòa, Gia Nghĩa... Trong vòng hai năm, số tín hữu từ khoảng 800 tăng lên trên 20.000. Các trại định cư đều có linh mục coi sóc.
Số Giáo dân tại Ban Mê Thuột tăng lên hằng năm. Một yếu tố khác nữa làm tăng số giáo dân ở Đăklăk là “Quốc sách Dinh điền” thời chế độ Ngô Đình Diệm: di dân lập “ấp chiến lược” (năm 1957). Tại các trại định cư như: Quảng Nhiêu, Đạt Lý, Đạo Tế, Khuê Ngọc Điền, Từ Cung, Đạt Hiếu, Quảng Trạch… số người Công giáo đến sinh sống lập nghiệp cũng khá đông. Hai năm sau, thấy đời sống đức tin của giáo dân có phần gương mẫu, số người muốn học và tìm hiểu đạo Công giáo lên đến khoảng 3.000 người.
Tính đến năm 1960, số giáo dân trong tỉnh Đăklăk đã lên đến 25.000 người. Các trại định cư và dinh điền hàng năm đều có thêm người đến lập nghiệp.
4. Về việc truyền giáo cho đồng bào sắc tộc:
Năm 1950, sau khi cha Romeuf nghỉ phép ở Pháp về, ngài có cha Lưu Phương, linh mục Địa phận Kontum bị tỉnh Kontum trục xuất vì tình nghi “theo Việt Minh”, giúp việc Giáo họ Ban Mê Thuột. Đồng thời có thêm Cha Bianchetti Bạch quyền chánh sở tuân lệnh Bề Trên Địa phận đi mở đạo cho các người Thượng.
Giáo xứ Ban Mê Thuột cũng như cha Bianchetti Bạch ghi nhớ và biết ơn ông Rendu, người Pháp, giáo viên trường Sabatier, là trường Trung học dành cho người Thượng Cao Nguyên Trung Phần. Ông độc thân, rất có lòng đạo, hằng ngày đi lễ và rước lễ, thường xuyên liên lạc với hai cha Romeuf và Bianchetti, để thảo luận về vấn đề truyền giáo cho người sắc tộc thiểu số.
Trước khi cha Romeuf về Pháp nghỉ, đã có một số em tự động đến nhà cha Romeuf chơi, và ngài cho các em coi các phim (projection) về Cựu Ước và Tân Ước, hoặc các phim về Tòa Thánh Roma, về Đất Thánh. Lẽ dĩ nhiên là có sự tác động bên trong của ông Rendu.
Ngày 15.12.1952, Đức Cha đến thăm xứ đạo Ban Mê Thuột và bổ nhiệm Cha Bianchetti Bạch đặc trách truyền giáo cho đồng bào Êđê.
Khoảng năm 1953, hai linh mục người Pháp thuộc Giáo phận Kontum, là cha Pièrre Romeuf Phương và cha Roger Bianchetti Bạch (MEP), quản xứ giáo xứ Ban Mê Thuột, đã đặt những bước chân đầu tiên lên thăm vùng đất của anh em dân tộc Êđê, tại buôn Kroa và buôn Jù, cách Buôn Ma Thuột khoảng 20 km. Cuối năm 1954 cha Pièrre Romeuf, chính xứ Ban Mê Thuột và cộng sự của mình là cha Giuse Trịnh Chính Trực, bắt đầu công cuộc truyền giáo cho đồng bào buôn Kroa. Sau một năm, hai gia đình người dân tộc đã được rửa tội, đánh dấu cho một cuộc khai sinh vùng đất truyền giáo mới với bao hy vọng.
Trước năm 1954, trong toàn tỉnh Đăklăk chỉ có khoảng 7.000 người Kinh và 115.000 người sắc tộc, thuộc các bộ tộc Êđê, M’Nông và S’Tiêng (khi đó tỉnh Quảng Đức chưa được thành lập). Việc rao giảng Tin Mừng cho người sắc tộc cực kỳ khó khăn vì thiếu linh mục phụ trách và thiếu sách giáo lý tiếng bản địa.
Cái khó nhất trong việc dùng tiếng Êđê để giảng đạo là: làm sao tìm được những chữ đúng nghĩa về các mầu nhiệm trong đạo! Nhưng cũng có cái may cho Cha Bianchetti Bạch là các Mục sư Tin Lành truyền giáo từ năm 1934, đã dịch Kinh Thánh và viết sách giáo lý bằng tiếng Êđê. Cha Bianchetti Bạch dựa vào đó nghiên cứu thêm. Cha còn sống hòa nhập với đồng bào các buôn làng để tìm hiểu về đời sống, kinh tế, tập quán và cả tín ngưỡng của họ nữa.
Bước khởi đầu thuận lợi, cha Bianchetti Bạch với ông Rendu tiếp tục thực hiện từng chi tiết, theo kế hoạch dựng sẵn. Nhờ ơn Chúa phù trợ, số thiếu nhi sắc tộc tham dự các buổi giáo lý lên đến 20 em.
Nhận thấy việc mở lớp giáo lý tại nhà cha sở Ban Mê Thuột bất tiện vì chật hẹp, thiếu chỗ ngồi, nên ngài được phép làm nhà riêng. Khuôn viên trường Lasan Lam Sơn, đường Cường Để, - nay là trường Bồi dưỡng Chính trị đường Nguyễn Văn Trỗi, Ban Mê Thuột - là cơ sở truyền giáo Thượng đầu tiên của cha Bianchetti Bạch.
Hai dãy nhà tranh được cất lên, có phòng rộng rãi, điện nước, đủ tiện nghi, có nhà lưu trú. Cha Bianchetti thường trú tại nhà này. Ông Rendu cũng đến ở chung với cha. Một số em học sinh Thượng ở xa, thay vì nội trú tại trường Sabatier, đến xin tá túc tại cơ sở cha Bạch.
Vấn đề truyền giáo cho đồng bào Thượng không chỉ ở trung tâm thành phố, với vài ba chục học sinh mà còn phải đi sâu vào các làng các buôn Thượng. Có ông Rendu thường trực tại cơ sở chính, phụ tá cha Bianchetti lo cho các em, quản lý nhà. Cha Bianchetti đi thăm các làng quanh vùng Ban Mê Thuột, Lạc Thiện, Buôn Hô.
Ngài quyết định đặt thí điểm truyền giáo chính thức của Giáo phận cho các đồng bào sắc tộc ngoài thị xã là buôn Sut Hluôt. Buôn này ở về phía bắc thị xã, cách tỉnh lỵ độ 5 cây số đường chim bay và 9 cây số đường bộ.
Để đánh dấu ngày khai trương truyền giáo này, một buổi lễ ra mắt trọng thể được tổ chức tại buôn. Về phía tôn giáo, có cha Romeuf Phương, cha Bianchetti Bạch và các viên chức cùng bổn đạo họ Ban Mê Thuột. Về phía quan khách có các ông chánh phó Tỉnh Trưởng (ông Doustin và Reymond), Chánh phó Quận trưởng quận Ban Mê Thuột (Y Bliêng Hmok). Chánh phó Tổng và các chủ buôn các làng Thượng lân cận và cả dân làng buôn Sut Hluôt.
Sau mấy lời chào mừng các quan khách, cha Romeuf nhắc lại đôi dòng lịch sử truyền giáo tại Cao Nguyên, những thành quả tốt đẹp tại Kontum, tại Pleiku trong các bộ lạc Bahnar, Sơ Đăng, Rơ Ngao, Jơ Rai,… Có ba linh mục Bahnar chịu chức năm 1932, sáu chị Mến Thánh Giá cải tổ tại Gò Thị, một linh mục tu dòng Xitô Phước Sơn, các chị Ảnh Vảy Đức Mẹ (Filles des Médailles Miraculeuses), và cả mấy trăm Thầy Giảng (Iao – phu) giúp việc truyền giáo trong các làng Thượng Công Giáo của hai tỉnh Kontum và Pleiku.
Tiếp đến, cha Romeuf Phương giới thiệu cha Bianchetti Bạch: “Dù thiếu linh mục, nhưng chúng tôi không bỏ quên anh chị em. Nay cha Bianchetti Bạch được chỉ định phụ trách chuyên lo cho các anh em Thượng vùng Đăklăk”. Buôn Sut Hluôt là nơi được chọn làm thí điểm truyền giáo đầu tiên của tỉnh Đăklăk và của cha Bianchetti Bạch. Một trật, ngài cũng quyết định mở thêm một giáo điểm truyền giáo cho anh em sắc tộc khác tại Buôn Ea Khít và Buôn Ea Kmar, Cha Bianchetti Bạch cùng một lúc giảng giáo lý cho hai buôn này. Đồng bào nơi đây tiếp thu giáo lý dễ dàng hơn. Vì nhiều lý do, có một số người dân Ea Khit di tản về Ea Kmar, họ lại có cơ hội thuận tiện học giáo lý chung.
Sau hai năm làm việc tận tụy với tất cả nhiệt huyết tông đồ tại Buôn Sut Hluôt, cha Bianchetti như thất bại hoàn toàn.
Nhưng tại Buôn Ea Khít và Buôn Ea Kmar, tình hình lạc quan hơn. Sau ba năm học đạo và được thử thách, ngày vui mừng đã đến: bảy anh chị em đầu tiên được lãnh bí tích Thanh tẩy vào năm 1956 tại đồn điền Saint Paul (đường Nguyễn Du, nay là đường Y Ngông). Một số khác được rửa tội ở tại buôn Ea Kmar. Trong lễ rửa tội này, hầu hết anh chị em dự tòng tại Ea Kmar ra tham dự. Giáo dân Họ Ban Mê Thuột cũng đến rất đông. Sự hiện diện này khích lệ tinh thần các anh em tân tòng. Cha Bianchetti Bạch cử hành nghi thức bằng tiếng Rhadé. Đức Cha Seitz Kim chủ tọa và cử hành Thánh Lễ.
Công tác truyền giáo tại buôn Sut Hluôt bề ngoài có vẻ thất bại, nhưng tương lai và hy vọng vẫn còn. Cha Bianchetti Bạch chú tâm vào các buôn vùng Lạc Thiện, đồng thời xúc tiến công tác xây cất nhà thờ, nhà xứ, trường học. Cơ sở đầu tiên tại đường Cường Để nhường lại cho Cô nhi Têrêxa, do Đức cha Paul Seitz Kim cưu mang từ Hà Nội, sau này được cha Faugère Cao và cha Giuse Trịnh Chính Trực đưa vào Ban Mê Thuột, lập xưởng đào tạo thợ máy, thợ nguội,… và đặt tên là Xưởng thợ Têrêxa.
Thêm một điều khó khăn cho Cha Bianchetti Bạch là hầu hết các buôn sắc tộc đều đã có các Mục sư Tin Lành đến giảng đạo và lập hội đường tại đó. Nếu cư xử không khéo sẽ dẫn đến va chạm và bất hòa...
Sau khi bảy (7) anh chị em sắc tộc đầu tiên ở Buôn Eakhit được chịu phép rửa, số tân tòng tăng lên khá đông trong năm năm vất vả rao giảng Tin Mừng (1953-1957). Vì thế, năm 1957, Cha Bianchetti thành lập giáo xứ Ea Kmar.
Đầu năm 1958, Cha Purguy Lý đến thay Cha Bạch coi sóc xứ đạo Ea Kmar. Cha Bạch về Ban Mê Thuột xây cất Trung tâm Công giáo Sắc tộc (phía sau Bệnh viện tỉnh) tại đồn điền Maillot, nay là Giáo xứ Mẫu Tâm. Song song đó, Cha mở Ký túc xá để đón nhận học sinh các Buôn ở xa đến theo học các lớp chuyên môn, không phân biệt tôn giáo.
Ngoài ký túc xá ở Trung tâm Công giáo sắc tộc của cha Bianchetti, các nữ tu Dòng Nữ Vương Hòa Bình còn làm nhà nội trú cho các em nữ sắc tộc ở các buôn xa về thị xã học, do quĩ Caritas hỗ trợ. Nhà nội trú được gọi là “Trung tâm hướng Thượng” (hướng về anh em sắc tộc) tại 133 Phan Chu Trinh, nay là trường Mầm non Họa Mi và Trạm xá Tình Thương của Dòng. Có 80 em được nuôi ăn miễn phí.
Số tân tòng và dự tòng lúc này ở các buôn làng và các trung tâm thời bấy giờ, lên đến 300 người.
Nhà Thờ lớn Banmêthuột: 1958-1959
Nhà thờ cũ mà thầy Hiền và giáo dân cất dựng lên, tồn tại từ năm 1934 đến 1959. Năm 1954, vì có thêm một số bổn đạo từ Kontum di tản đến đây, Cha Romeuf nới thêm một căn 32m2 và thay thế mái tranh bằng mái tôn. Diện tích của cả nhà thờ chỉ có 160m2, kể cả hai chái trước và sau.
Dự định xây dựng Nhà thờ mới bị gián đoạn trong một khoảng thời gian, vì lúc đó Giáo phận trống ngôi Giám Mục. Mãi đến ngày 31.3.1953 mới được phép, sau khi Cha Romeuf làm đơn xin sử dụng khu đất trống hơn 2 ha để xây cất Nhà Thờ. Đất này nằm chính giữa thị xã Ban Mê Thuột và chưa có ai xin sử dụng. Ông Nguyễn Đệ, Khâm mạng Hoàng Triều Cương thổ, sau khi chỉ thị cho Tòa Hành chánh tỉnh Đaklăk làm các thủ tục, đăng trên Công báo và gửi các tỉnh để niêm yết trong vòng hai tháng, đã ký giấy bán khu đất trên cho Địa Phận Kontum với giá tượng trưng là 1 đồng bạc Việt Nam. Hồ sơ khu đất đã được hoàn tất và đất được cấp vĩnh viễn.
Phong trào di cư đã tăng số Linh mục và giáo dân trong Giáo hạt. Riêng tại thị xã đã có hơn 4.000 giáo dân. Cha Romeuf nhận thấy sứ vụ của mình tại đây đã kết thúc, Ngài đệ đơn xin thuyên chuyển.
Tháng 9 năm 1956, Đức Cha Seitz Kim mời cha GB. Trần Thanh Ngoạn, gốc Giáo phận Vinh lên làm chánh xứ Ban Mê Thuột, kiêm Hạt trưởng Hạt Ban Mê Thuột. Cha Ngoạn đã xây dựng Nhà thờ lớn thị xã (nay là Nhà Thờ Chính tòa Ban Mê Thuột), có chiều dài 45m, rộng 12m, mỗi cánh Thánh Giá 12m x 12m. Tổng diện tích 828m2; trừ cung thánh, còn được 1200 chỗ ngồi. Nhà thờ xây đúng một năm và được khánh thành vào ngày Chúa Nhật II sau Lễ Phục Sinh năm 1959.
Cơ sở Nhà thờ cũ, Đức Cha Kim tạm giao cho các Sư Huynh La San mở Trường Trung Tiểu học, niên khóa đầu tiên là 1959-1960. Sau khi các Sư Huynh xây cất xong Trung học La San đồi (nay là Trường Cao đẳng Sư Phạm Đăklăk), Đức Cha giao quyền sở hữu cơ sở cũ cho các Nữ Tử Bác ái Vinh Sơn tùy nghi sử dụng.
Nhà Chung Ban Mê Thuột

Cơ sở này là tu viện do các Nữ tu Dòng Biển Đức xây dựng. Về sau, để thuận lợi cho sự phát triển của Dòng, hai Đức Giám mục Kontum và Sài Gòn đã chấp thuận cho Nữ Đan viện Biển Đức dời về Thủ Đức, Sài Gòn vào năm 1966 để lập cơ sở mới tại đó. Tu viện Nhà Dòng đã được Đức Cha Paul Seitz Kim mua lại để các cha trong hạt Ban Mê Thuột làm nơi hội họp hằng tháng, như một sở quản lý và làm chỗ nghỉ vãng lai và để chuẩn bị thành lập Giáo phận mới. Hơn một nửa cơ sở này dành cho Dòng Mến Thánh giá (Nữ Vương Hòa Bình) di chuyển từ Kontum xuống. Cha Võ Quốc Ngữ được bổ nhiệm làm Quản lý Nhà Chung Ban Mê Thuột. Vào ngày 22.6.1967, với sắc chỉ “Qui Dei Benignitate” thiết lập Giáo phận Ban Mê Thuột của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, ngôi nhà này được mang tên mới: “Tòa Giám Mục Ban Mê Thuột.”

Ban Mê Thuột phát triển các dòng tu
Cùng với số giáo dân tăng thêm, các Dòng tu cũng được mời lên Banmêthuột.
A. CÁC DÒNG NỮ
1. Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn 

Năm 1938, Đức Cha Jannin Phước mời các Nữ tử Bác ái Vinh Sơn lên giúp Địa Phận Kontum. Năm 1953, Đức Cha Seitz Kim xin Nhà Mẹ tại Sài Gòn cho lập chi nhánh tại Ban Mê Thuột. Các Bà đã đến lập các cơ sở: mở trường nữ và cô nhi viện, địa điểm này hiện nay là Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Đăklăk.
Hai nữ tu Vinh Sơn và hai chị tập sinh lần đầu đến Ban Mê thuột. Nữ tu Marie Renée là bà nhất và bắt tay khởi công xây dựng cơ sở.
Các bà định mở lớp mẫu giáo cho trẻ em nữ, nhưng không có địa điểm nào cả. Lúc bấy giờ ông Nguyễn Đức Trung, chuyên nuôi bò xẻ thịt, có một chuồng bò rộng 150 thước vuông, bỏ trống (địa điểm này hiện là Khách sạn Cao Nguyên, đường Phan Chu Trinh, Ban Mê Thuột), cha Romeuf và bà Marie Renée đến nghiên cứu và xin ông Trung cho mượn chuồng bò để sửa sang và mở lớp mẫu giáo.
Lễ khai giảng trường nữ của các bà Vinh Sơn, diễn ra vào một buổi chiều nắng đẹp. Hiện diện có cha Romeuf, ba nữ tu với 20 em học sinh, các hương chức xã Lạc Giao, chức việc họ Ban Mê Thuột, phụ huynh học sinh, đặc biệt có ông Tôn Thất Hối, Nguyên Quản đạo tỉnh Đăklăk, cũng mỗi tay một đứa con đến xin học. Gia đình ông Trung sung sướng, vì không ngờ chuồng bò của mình hôm nay, lại trở thành trường mẫu giáo đầu tiên của các nữ tu Vinh Sơn, và là trường mẫu giáo đầu tiên của Ban Mê Thuột.
Một năm sau, vào niên khóa 1954 – 1955, các nữ tu đã khai giảng khóa học đầu tiên cho các nữ sinh tại Trường Tiểu học Vinh Sơn, nay là Trường Mầm non 10.3, đường Phan Chu Trinh, Ban Mê Thuột.
Sau khi các sư huynh Lasan xây dựng xong Trường Lasan đồi và trường Lasan Lam Sơn năm 1969, Đức Cha giao quyền sở hữu cơ sở cũ cho các Nữ Tử Vinh Sơn tùy nghi sử dụng. Các nữ tu tiếp tục mở trường Trung học Đệ nhất cấp. Hiện nay là trường Trung học Cơ sở Phan Chu Trinh.
2. Dòng Nữ Biển Đức Thừa Sai
Ngày 21.7.1954, theo lời mời của Đức Cha Seitz Kim, các Nữ Đan sĩ Dòng Thánh Biển Đức đến Ban Mê Thuột lập Dòng Nữ Biển Đức Thừa Sai. Vỏn vẹn có 5 tu sĩ với 4 quốc tịch khác nhau, các Bà cũng đã xây dựng cơ sở vật chất cho Đan viện sau này. Các Bà lại xin khai hoang 30 hecta đất rừng để trồng cà phê và lập buôn làng kiểu mẫu cho đồng bào Sắc tộc. Đó là Buôn Akô D’hoong.
Buôn Akô D’hoong là giáo buôn kiểu mẫu về tổ chức, về cung cách sản xuất, về việc bảo tồn văn hóa, phong tục sắc tộc. Có thể nói, Buôn Akô D’hoong là mô hình Hợp tác xã -Xã hội - Chủ nghĩa - Kitô giáo đầu tiên ở Miền Nam Việt Nam. Tất cả các hộ trong buôn đều là xã viên, kể cả các nữ tu lãnh đạo. Các nữ tu cũng được phân chia sản phẩm lao động như mọi người, rất hợp tình hợp lý. Buôn Ako D’hoong đã trở thành địa điểm thu hút khách du lịch, và các nhân vật quan trọng, trong và ngoài nước.
Trong khuôn viên Nhà Dòng có nơi để các thanh nữ từ các nơi về trọ học. Các Bà cũng giúp các cha về việc biên soạn bộ sách Giáo lý có kèm theo kinh bằng tiếng Sắc tộc. Năm 1966, các Bà dời về Thủ Đức, Tp Sài Gòn.
3. Dòng Nữ Thánh Phaolô thành Chartres
Dòng này được mời đến chỉ với mục đích huấn luyện tu đức cho các chị em Dòng Mến Thánh Giá theo từng cấp bậc. Các Nữ tu đã khấn còn được huấn luyện về cách quản trị Nhà Dòng hoặc các Cộng đoàn nhỏ tại các Giáo xứ.
4. Dòng Mến Thánh Giá (Nữ Vương Hòa Bình): 
“Ngày 1.9.1959, Đức Cha Paul Léon Seitz khai sinh một Dòng nữ tại Giáo phận Kontum, lúc đầu được gọi là Mến Thánh Giá. Vào những ngày đầu tháng 9, ngài đã qui tụ một nhóm đệ tử đầu tiên đến từ Phú Yên, Pleiku, Đăklăk, Kontum, gửi đến sống chung với đệ tử Dòng Thánh Phaolô tại giáo xứ Tân Hương, Kontum, và nhờ các Soeurs Dòng Thánh Phaolô huấn luyện. Cũng trong thời gian này, Đức Cha tuyển lựa một số chị trong nhóm các Dì, Dòng Mến Thánh giá, đang phục vụ tại trường Cuénot trong Giáo phận Kontum, để gia nhập Dòng mới của ngài. Năm 1960, Đức Cha gửi các chị này và các chị mới gia nhập, ra làm nhà tập tại Tập Viện Stella Maris của Tỉnh Dòng Thánh Phaolô Đà Nẵng. Sau thời gian tập kỳ, năm 1963, các chị trở về Kontum và tuyên khấn lần đầu tại giáo xứ Tân Hương.
Từ tháng 6 năm 1964, Dòng được chuyển dần về Ban Mê Thuột, lúc đầu các chị ở nhờ gia đình giáo dân, và bắt đầu xây dựng cơ sở đầu tiên của Dòng tại 133 (nay là 151) Phan Chu Trinh Ban Mê Thuột. Tháng 9 năm 1966, ngài đã đổi tên Dòng thành Nữ Vương Hòa Bình và để hợp thức hóa các thủ tục về mặt hành chính, Đức Cha đã cho làm con dấu của Dòng với nội dung “Tu viện Nữ Vương Hòa Bình và hình chim bồ câu ngậm cành lá ô-liu” (St 8,11).
Năm 1967, toàn Dòng được chuyển về Ban Mê Thuột trước khi Tòa Thánh thiết lập Giáo phận mới vào ngày 22.06.1967.” (Theo tư liệu của Dòng Nữ Vương Hoà Bình).
B. CÁC DÒNG NAM
1. Các Sư huynh La San: 

Nhận lời mời của Đức Cha Kim, các Sư Huynh đã đến Ban Mê Thuột mở Trường Trung Tiểu học đầu tiên và niên khóa 1959-1960. Sau ba năm xây cất, các Sư Huynh có 2 trường riêng biệt: Tiểu học La San trên đường Cường Để (nay là trường Nguyễn Văn Trỗi) và Trung học Lasan đồi (nay là Trường Cao đẳng Sư phạm Đăklăk). Các trường hoạt động đều đặn cho đến 10.3.1975. Chuyên môn của Dòng La San là dạy học.
2. Đan viện Thánh Biển Đức Thiên Hòa: 
Là chi nhánh Dòng Thiên An Huế, được mời đến lập Dòng vào năm 1959. Trụ sở Dòng tại cây số 30, trên đường đi Nha Trang. Đan viện được khánh thành năm 1962, có 10 cha và Đan sĩ. Dòng mở thêm Đệ tử viện thu nạp ơn thiên triệu chiêm niệm Biển Đức. Các cha còn mở trường Tiểu học miễn phí cho trẻ em trong vùng. Sau ngày Giải phóng, Nhà Nước sung công cơ sở Nhà Dòng. Các Đan sĩ phải chuyển vào nhà thờ Giáo họ Hòa Tiến của giáo xứ Thuận Hiếu, cách trụ sở dòng 6 km.
3. Đan viện Xitô Châu Sơn
Các Dòng tu ở Bắc cũng di cư vào Nam hầu hết. Riêng Dòng Xitô Châu Sơn (Nho Quan tỉnh Ninh Bình) còn ở lại Bắc một phần tư (1/4) Đan sĩ. Dòng Châu Sơn 1936 là con trưởng của Dòng Phước Sơn (1920). Trước khi lập nhà tại Đơn Dương tỉnh Tuyên Đức (1957) Đan Viện đặt trụ sở tạm ở Phước Lý.
Ban Mê Thuột cũng được Đan Viện lưu ý và đã có hai cha lên miền Cao Nguyên Darlac để tìm nơi yên tĩnh lập dòng. Châu Sơn lúc bấy giờ là một rừng rậm cách thị xã độ hơn 2 cây số. Có đường xe chạy vào các Buôn Thượng, Buôn Dung, Buôn Kdun,…
Hai cha chọn địa điểm lập dòng giữa hai Buôn Thượng này, có đất đai rộng, có suối nước, nếu chưa làm ra của cải vật chất thì tạm thời ra thị xã mua ăn.
Căn nhà lợp tôn vách ván đầu tiên năm 1955, được dựng lên trên khuôn viên nhà xứ Châu Sơn hiện tại (thôn 2 xã Cư Ebur, Tp. Buôn Ma Thuột).
Tương lai của Giáo phận Kontum thêm sáng sủa hơn, nếu có một Đan Viện được thành lập trong Giáo phận. Không nhờ cậy gì về vật chất nhưng sẽ cậy nhờ rất nhiều về tinh thần, về lời cầu nguyện cho việc truyền giáo tại vùng Cao Nguyên.
Không bao lâu dòng bỏ ý định lập Đan viện tại Châu Sơn, nhưng nhìn về Đơn Dương (1957).
Đơn Dương và Ban Mê Thuột giáp ranh giới với nhau, và tuy bỏ Giáo phận Kontum qua lập dòng tại Tuyên Đức, Địa Phận Sàigòn (Địa Phận Đàlạt thành lập năm 1960. Địa Phận Ban Mê Thuột thành lập năm 1967) – Đan Viện Xitô Châu Sơn vẫn còn ở miền Cao Nguyên, để cầu nguyện cho việc truyền giáo, đặc biệt cho đồng bào sắc tộc.
Dòng Châu Sơn dời đi nơi khác, nhưng tên Châu Sơn vẫn còn được giữ mãi cho đến ngày nay. Châu Sơn, tên một Đan viện Việt Nam vẫn còn ở mãi mãi trong lòng Giáo phận Ban Mê Thuột.
Trong các Dòng tu nam và nữ trên đây thì dòng Đức Maria Nữ Vương Hòa Bình là dòng trực thuộc Giáo Phận. Các dòng còn lại trực thuộc Tòa Thánh.
Ngoài ra, từ năm 1958 đã có một giáo xứ được thành lập ở huyện Bố Đức, tỉnh Phước Long (nay là huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước). Đó là giáo xứ Châu Ninh, gồm những công nhân “công-tra” làm đồn điền cho Pháp, do cha Giuse Phạm Quang Thiều dòng Đồng Công phụ trách.
B. GIÁO PHẬN BAN MÊ THUỘT RA ĐỜI: 22.6.1967
Năm 1967, Tòa Thánh tách Đăklăk ra khỏi Kontum, Quảng Đức và Phước Long ra khỏi Đà Lạt, thành lập Giáo phận Ban Mê Thuột mới vào ngày 22.06.1967. Số giáo dân lên tới 54.500 người với 51 linh mục. Hơn 98% Công giáo là người Việt Nam ở trên một lãnh thổ mang tên Thượng: Ban Mê Thuột, tức Buôn Ama Thuột, nghĩa là Làng của Cha cậu Thuột.
Giáo phận Ban Mê thuột ban đầu gồm ba tỉnh: Đăklăk, Quảng Đức và Phước Long. Đăklăk thuộc Giáo phận Kontum, có khoảng 35.000 giáo dân. Quảng Đức có khoảng 7.500 và Phước Long có khoảng 12.000 giáo dân. Hai tỉnh này thuộc Giáo phận Đà Lạt.
Giáo dân thuộc Địa phận Kontum năm 1967 là 115.000 người, trong đó có 33.000 giáo dân sắc tộc sống rải rác trên địa bàn 4 tỉnh: Kontum, Pleiku, Phú Bổn và Đăklăk. Tình cảnh đó khiến cho Đức Giám Mục Kontum rất vất vả trong trách nhiệm mục vụ. Thêm vào đó là những trở ngại giao thông khi Đức Giám mục Đà Lạt đi kinh lý tại Quảng Đức (lúc đó Quảng Đức thuộc Giáo phận Đà Lạt), Ngài phải sang xe đến vài lần. Tòa Thánh nhận thấy như vậy nên đã quyết định sát nhập hai Hạt Quảng Đức và Phước Long của Giáo phận Đà Lạt vào Hạt Ban Mê Thuột để lập thành Giáo phận mới.
Ngày 22.6.1967, với Sắc chỉ “Qui Dei Benignitate”, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã thiết lập Giáo phận Ban Mê Thuột. Đồng thời bổ nhiệm cha Phêrô Nguyễn Huy Mai làm Giám mục tiên khởi Giáo phận Ban Mê Thuột với Sắc chỉ “Qui Omnium Catholicae”. Lễ Tấn Phong Giám mục được cử hành tại Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn ngày 15.8.1967. Lễ nhậm chức tại Nhà thờ Chính tòa Ban Mê Thuột ngày 22.8.1967.
Khi mới thành lập, Giáo phận Ban Mê Thuột gồm 3 Giáo Hạt, có 55 linh mục, 33 giáo xứ với 56.719 giáo dân. Ranh giới địa lý Giáo phận bao gồm tỉnh Đăklăk, tỉnh Đak Nông và một phần của tỉnh Bình Phước với diện tích là 21.723 km2; giáp Giáo phận Kontum ở phía Bắc, giáp Giáo phận Nha Trang ở phía Đông, giáp Giáo phận Đà Lạt ở phía Đông Nam, giáp Giáo phận Xuân Lộc ở phía Nam, phía Tây Nam giáp Giáo phận Phú Cường, còn phía Tây giáp tỉnh Mondunkiri của Campuchia. Có sông Ea Krông và các phụ lưu tạo thành sông Sêrêpok chảy vào sông Mê Kông. Các sắc tộc sống trong vùng gồm: Kinh, Êđê, S’Tiêng, M’Nông, Xơ Đăng, Tày, H’ Mông...
BAN VHTT GP BANMÊTHUỘT
(Theo: - Tư liệu của ông Lê Văn Triều,
- Sách “25 Giáo phận Việt Nam” của cha Trần Phúc Long, năm 1996;
- Niên giám Giáo hội Công Giáo Việt Nam 2005;
- Sinh hoạt Giáo phận 2007- TGM BMT;
- Lịch sử Dòng Nữ Vương Hòa Bình và Internet.)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Vì sao người quân tử không tranh cãi với kẻ tiểu nhân?

Không tranh cãi với kẻ tiểu nhân Khổng Tử có một cậu học trò rất thích tranh luận. Một hôm, người học trò này đến thăm Khổng Tử t...