Ý NGHĨA CÁC ĐỊA DANH TẠI TÂY NGUYÊN

Dòng sông Đăk Bla tại thành phố Kon Tum


1./ Các địa danh thông dụng:

Tiếng Êđê ( theo từ điển Êđê-Pháp của Durisbourne, Paris 1965) 
Krông: suối, sông nhỏ 
Buk : tóc (vậy Krông Buk có thể hiểu là "Suối tóc") 
Ea: sông nói chung (đúng ra Ea là nước (eau/water), tiếng Jarai là Ya hay Ia) 
Dak: sông lớn (tiếng Mnông thì Dak là nước) 
Chư: núi (tiếng Chăm là Chơh) 
Buôn: làng 

Tiếng Bahnar (theo tự điển Bahar-Pháp của Gulleminet)
Dak : nước, sông 
Kon: người, kẻ, làng, bản 
Ngok: núi (thí dụ Ngok Ring , hiện phiên là Ngọc Linh, núi cao nhất Tây nguyên (2877m). Ngọk: núi, Ring: làng , vùng đất chung của tổ tiên 
Plei: làng (do ảnh hưởng tiếng Jarai và Chăm là Pơlei) 

Tiếng Stiêng 
Bù: người, làng bản (Bù Đốp, Bù Đăng, Bù Gia Mập...)

2/. Các địa danh hành chánh

Kon Tum: tiếng dân tộc Ba Na có nghĩa là Làng Hồ.
Kon có nghĩa là buôn, làng, vùng đất... Tum nghĩa là ao hồ, đầm lầy... Đây là vùng trũng dọc theo lưu vực sông Đăk Bla, có nhiều ao chuôm nên được gọi nôm na như vậy. Xưa kia khu vực này đã từng có một hồ lớn tại thành phố Kon Tum ngày nay. Ba Na là dân tộc bản địa vùng đất Kon Tum. Chữ Kon Tum là viết đúng, nếu viết là Công Tum hay Kontum là sai.

Gia Lai: là tỉnh đặt theo tên dân tộc Gia Rai.
Người Gia Rai hay Jarai, Djarai là một dân tộc nói tiếng Gia Rai
Người Gia Rai còn có các tên gọi khác Giỏ-rai, Chơ rai, Tơ Buăn, Hơbau, Hdrung, Chor hay Gia Lai. Thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô – Pôlinêxia. Hiện nay dân số của tộc người này khoảng 240.000 người; cư trú chủ yếu tập trung ở tỉnh Gia Lai, một bộ phận nhỏ ở tỉnh Kon Tum và các huyện phía Bắc tỉnh Đắc Lắc.

Pleiku:
 tiếng dân tộc Gia Rai có nhĩa là Làng Đuôi. Plei (đúng tiếng Jrai là plơi) là làng, ku là cái đuôi. Tạm dịch: Pleiku là làng có cái đuôi, gắn liền với truyền thuyết của dân tộc ở thành phố này... Đây là nghĩa thông dụng, còn theo Kpă Pual  là chưa thuyết phục về nguồn gốc, vì người Jrai không đặt tên làng theo sự kiện mà chỉ đặt theo tên sông, núi, phương hướng, cây cối... hoặc theo tên người lập làng.  Phải viết đúng là Plei Ku.

Đăk Lăk: Theo tiếng dân tộc M'Nông có nghĩa là Hồ nước
Đăk = nước; Lăk = hồ. Đắk Lắk, Darlac hay Đắc Lắc có nghĩa là hồ nước .
Người M'Nông hay còn gọi là người Bu-dâng, Preh, Ger, Nong, Prâng, Rlăm, Kuyênh, Chil Bu Nor, nhóm M'Nông-Bu dâng, là sắc tộc sử dụng ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer. Sống tập trung khá đông nhất là tại các huyện phía Nam của tỉnh Đắk Lắk.
Đắk Lắk là một trong số các địa danh gây nhiều tranh cãi nhất về cách viết, tùy theo góc độ nhìn nhận của ngôn ngữ học, dân tộc học hay xã hội học.

Buôn Ma Thuôt: tiếng dân tộc E Đê có nghĩa là Làng của Cha thằng Thuột.
Buôn Ma Thuột (hay Ban Mê Thuột), đúng tiếng Ê Đê nói là: Buôn Ama Thuôt. Cái địa danh này xuất phát từ tên gọi buôn của Ama Thuột (Ama là Cha; Thuột là tên Con; người Ê Đê khi có con trai, thì họ gọi nhau bằng tên của con trai mình, ở đây A ma Thuột nghĩa là Cha của Thuột và thường gọi là Cha Thuột) – là một buôn lớn dân cư đông đúc và giàu có nhất vùng (nay là buôn Kô sia thuộc phường Tân Lập, TP Buôn Ma thuột). Vị trưởng làng này rất giàu có, đồng thời là một tù trưởng quyền uy nhất vùng. Ông ta cai quản thêm hàng loạt các buôn làng xung quanh, để rồi lâu dần phát triển thành một cụm dân cư  tạo tiền đề cho việc hình thành thành phố Buôn Ma Thuột ngày hôm nay. 

 Đắc Nông: tiếng M'Nông có nghĩa là Nước(đất) của người M'Nông.
Theo cách giải thích chính thức của cơ quan văn hóa tỉnh thì Dak Nông là: vùng Đất (nước, lãnh thổ) của Con người (Mơnông) - tức là vùng đất của người M’Nông Đây là ý kiến hợp lý nhất (hiện chưa có tài liệu lý giải khác) vì Đắk Nông là vùng đất cổ, nằm trên cao nguyên M’Nông. có đến 38,9 % tổng số người M’Nông tại Việt Nam.

Gia Nghĩa: dịch nôm tiếng Việt là nhà của dân Quảng Ngãi.
Gia Nghĩa là nơi định cư của một số người Việt gốc ở Quảng Ngãi. Gia Nghĩa hiện là thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Đắk Nông.

Lâm Đồng: đơn giản là Rừng + Đồng (ruộng).
Vì tỉnh Lâm Đồng có gốc từ tỉnh Lâm Viên (còn được gọi là Langbiang hay Lâm Viên) và tỉnh Đồng Nai Thượng. Năm 1958, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng

Đà Lạt: tiếng dân tộc Lạch (Cơ ho) có nghĩa là nước của người Lạch.
Địa danh Đà Lạt được bắt nguồn từ chữ Đạ Lạch, tên gọi của dòng suối Cam Ly. Khởi nguồn từ huyện Lạc Dương, con suối Cam Ly chảy qua khu vực Đà Lạt theo hướng bắc – nam, trong đó đoạn từ khoảng hồ Than Thở tới thác Cam Ly ngày nay được gọi là Đạ Lạch. Theo ngôn ngữ của người Thượng, Da hay Dak có nghĩa là nước, tên gọi Đà Lạt có nghĩa nước của người Lát, hay suối của người Lát. Người Lạch là một trong những nhóm thuộc dân tộc Cơ Ho ( Kơ ho). Cơ ho là dân tộc bản địa vùng đất Lâm Đồng.

3/. Tên làng của các tộc người bản địa
  Cũng như các dân tộc thiểu số sinh sống trên đất nước Việt Nam, đồng bào các dân tộc thiểu số ở Kon Tum sống quần cư một nhóm hộ đồng tộc lập ra làng gọi là Plei (Pơlây).
Mỗi Plei đều có một tên riêng. Tên của Plei thường gắn liền với đặc điểm địa danh nơi ở hoặc theo tên núi, sông, hồ và nguồn nước uống của họ; đôi khi được gọi theo tên của người có uy tín nhất trong làng.
Một ngôi làng của người Ba Na sống vùng ven hồ đặt tên là Kon Tum (làng Hồ). Kon Tum chia thành làm 2 làng Kon Tum Kơpâng (Làng Hồ Trên) và Kon Tum Kơnâm (Làng Hồ Dưới). Ở đầu nguồn nước của làng uống có cây Sung thì làng ấy gọi là Kon Hra ( Làng Sung ), có cây Cầy thì gọi là Plei tơ ngia, có cây Gòn gọi là Kon Blang….
Gọi làng Plei Don vì nó nằm trên đất gò cao (Don: đất gò, trên cao), làng nằm trên lưng đồi đặt tên là Plei Groi ( Groi là lưng đồi ).
Xã Đak Rơ Wa lẽ ra phải viết chính xác là Đak Rơ bua nghĩa là Nước Môn (Rơ bua là môn), làng có nhiều bông gạo, người Ba Na Rơ Ngao đặt tên làng là Kon Klor (Klor: cây gạo), nơi có cây thông mọc nhiều gọi là làng Kon Hơ ngo (Làng Thông).
Có những làng lúc ban đầu chỉ là một, về sau tách ra thành 2 hoặc nhiều làng khác, ví dụ như làng Kon Hra,Kon Hơ ngo, Kon Mơ nay…Mỗi làng chia thành Kon Hra Kơ tu, Kon Hơ ngo Kơ tu, Kon Hơ ngo Klah và Kon Nơ nay Kơ tu, Kon Mơ nay Klah. Vậy từ Kơ tu ta hiểu là “ Nguyên thủy” và Klah có nghĩa là “ tách ra”.
Một ngôi làng lập ra ở gần một con suối đang chảy, bỗng nhiên mất hút trong lòng đất, người ta đặt tên làng Đak Mot (Nước Vào); làng lập ra ở giữa 2 dòng sông Kroong Bơ Lah (Đăk Bla) và sông Kroong Pô Kô (Đăk Pơ Kô) tên là làngPlei Kroong (Làng Sông). Plei Kroong cũng chia thành 2 làng Plei Kroong kơ tu (Là làng gốc ) và Plei Kroong klah (là làng mới tách ra).
Dân tộc Xơ Đăng Tơ Đră cũng có các làng như Plei Kân (Làng Lớn), Đak Tô hay là Tea To (Nước Nóng) Kon Jri (Làng Cây Đa),Tea Mot (Làng Nước Vào) Kon Brah (Làng Cát), Đăk Phía (Làng có cây nứa ở đầu nguồn). Riêng làng Plei Yang roong có nghĩa là làng Trời Nuôi. Làng này có một sự tích khá hẫp dẫn.
 Vì sao gọi là Plei Yang roong hay là làng Thần Nuôi? Sự tích có như sau:
Ngày xửa, ngày xưa, có một làng dân số phát triển rất nhanh, bởi người ta sinh ra không bao giờ chết, cho nên họ đặt tên làng là Yang Roong.
Về sau, có một người dân làng Yang Roong vô tình phạm luật của thần làm thần tức giận nên thần đã tước bỏ đặc quyền “ hữu sinh bất tử” và buộc phải tuân thủ theo quy luật chung của tạo hóa.
Cách đặt tên của một làng người Gia Rai Arap thường được mang tên của người có uy tín nhất trong làng. Ví dụ như làng Plei Mor, Plei Sar, Plei Klêng, Plei Chôt, Plei Chôt, Plei Reh, Plei Tang…
Như vậy, xét về từ, tên của làng có ít nhất là 2 từ. Một từ đứng trước có thể là PleiKon hoặc Đăk… , từ thứ 2, chính là cái tên của làng. Ví dụ như: Plei Don, KonJRi, Đăk Mot,…Những làng có 3 từ như là Plei Tơ Ngia, Plei Rơ Wak, Plei Tơ WânKon đứng trước như Kon Rơ Bang, Kon Bơ Băn…Đứng trước cái tên làng là từ Đăk như Đăk Rơ Bua..
Đối với tộc người Gia Rai thường dùng từ Plei đứng trước tên của làng; ví dụ: Plei Sả, Plei Kenh, Plei Lung Leng, Plei Hơ Mrong,…
Nhìn chung, các từ Plei, Kon, hay Đăk được hiểu là làng. Tuy nhiên, các từ trên nếu đứng riêng rẽ thì chúng lại mang ý nghĩa khác: Từ Plei có nghĩa là trái cây,  Kon  là con, và Đăk là nước.
Mỗi Plei là một đơn vị tự quản riêng biệt, đứng đầu có chủ làng (Bok Kơ Dă Ple) hoặc già làng (Bok Kră Plei) giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày của dân làng.Mọi việc điều hành trong lễ hội, hòa giải các mâu thuẫn trong làng đều do Bok Kră Plei hoặc Bok Kơ Dă Ple điều hành và giải quyết. Bok Kră Plei hoặc Bok Kơ Dă Ple thường là người có tuổi, giàu kinh nghiệm sống, am hiểu phong tục tập quán của làng, có nhiều uy tín và thậm chí còn được đặt tên cho làng.
Vì vậy, khi nghe đến tên gọi của một làng nào đó, người ta có thể biết được cội nguồn của tên làng ấy.

4./  Lời kết:
Dak Lak là tỉnh có bề dày lịch sử rất phong phú và đa dạng, với nhiều tộc người cùng nhau làm ăn, sinh sống trên vùng cao nguyên đất đỏ này. Các tộc người bản địa xuất hiện trước tiên trên vùng đất này gồm người Êđê, người M’Nông, người Jrai… Mãi cho tới đầu thế kỷ 20 người Việt mới tới định cư, năm 1954 cũng đã có một ít tộc người phía Bắc như Mường, Nùng, Dao, Mèo…vào Dak Lak định cư . Nhưng mãi tới những năm sau năm 1975 thì hầu hết các tộc người thiểu số phía Bắc như Tày, Thái, Mường, Mông, Dao… đã ồ ạt vào định cư khá đông tại Dak Lak !
Các địa danh trên địa bàn theo đó lần lượt được hình thành ở nhiều dạng khác nhau nhưng chủ yếu là 2 loại, loại dựa vào ngôn ngữ của các dân tộc cư trú lâu đời nhất ở Dak Lak và loại cải biên tên gọi đã có hoặc gắn với tên địa phương của dân mới đến. Ví dụ:
1/ Những địa danh được gọi bằng ngôn ngữ Êđê, M’Nông, Jrai… thường mượn từ tên gọi các địa hình, địa vật – núi, đồi, sông, suối, ao hồ, vùng tự nhiên hoặc tên người trong truyền thuyết, trong lịch sử:Theo tên gọi đồi núi: (huyện) C|ư Ju\t, (huyện) C|ư\ Mgar hoặc (xã) Nâm Nung, Nâm Ka, Yôk Yu, Yôk Rling…
- Theo tên gọi sông suối: (Huyện) Krông Knô, Ea H’leo, Ea Kar, Ea Súp, Dak Mil, Dak Nông, (xã) Ea Tlinh.
- Theo tên gọi một con thác: (Buôn) Drai H’ling, Drai Săp.
- Theo tên gọi vùng tự nhiên: Buôn Trăp, Buôn C|uah, Buôn C|uôr, Buôn Đôn…
- Theo tên gọi nhân vật trong truyền thuyết, lịch sử: (Buôn) MaThuột, (huyện) M’Drak, Ea H’Leo, Krông H’Năng, Buôn Niêng, Suối ÊaNiêng (tên của người lập buôn Niêng), Buôn DrangFôk (tên chủ buôn đầu tiên là Y Drang và vợ là H’Fôk)
2/ Những địa danh cải biên hoặc đặt theo cách gọi của người Việt và các dân tộc khác, có thể được hình thành theo nhiều cách.
- Cách Việt hóa địa danh sở tại như Đức Minh việt hóa từ tên gọi Dak Mil, Nam Đà Việt hóa từ tên gọi Nâm Đa, Đức Lập mượn tên nhánh suối Dak Rlăp….
- Cách dịch nghĩa địa danh như Trúc Sơn (xã của huyện Cư Jut) là dịch nghĩa của Cây trúc.  
- Gắn tên địa phương gốc của đồng bào mới đến để tạo thành địa danh mới như xã Hòa Thắng là nơi định cư của một số đồng bào Mường quê ở Hòa Bình, Gia Nghĩa là nơi định cư của một số người Việt ở Quảng Ngãi, một số địa danh bắt đầu từ chữ Quảng do người Việt quê ở các xứ Quảng đặt (xã Quảng Điền, huyện Krông Ana),
Về mặt văn hóa, địa danh của các tộc người bản địa cư trú trên địa bàn tỉnh Dak Lak là ngôn ngữ là tình yêu đối với quê hương xứ sở, với những huyền thoại, cổ tích, những phong tục tập quán. Theo dòng thời gian các địa danh còn mang đậm cả truyền thống lịch sử của một vùng quê mà đồng bào đã hình thành, giữ gìn và lưu truyền từ đời này sang đời khác, trở thành niềm tự hào chính đáng của cư dân bản địa. Gọi sai, viết sai hoặc xóa bỏ các tên gọi đó, vốn gần gũi, thân thương đối với mỗi người dân ở đây để thay thế bằng những tên gọi xa lạ thậm chí là những con số vô nghĩa, là một việc làm không nên.
Giữ gìn các địa danh, dùng thống nhất, chính xác các địa danh, không chỉ là một việc làm khoa học mà trước hết, đó là thể hiện sự trân trọng một truyền thống lịch sử của dân tộc, của quê hương đất nước. Là sự giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của vùng đất đó, dân tộc đó, và cũng chính là sự thể hiện trên thực tế những gì ta thường nói: bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam…/. 
ĐKT
12.05.2017

(Nguồn: Theo Địa chí tỉnh Đăk Lăk, tỉnh Gia Lai, tỉnh Đăk Nông, tỉnh Lâm Đồng)




                                                                                                                             

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Vì sao người quân tử không tranh cãi với kẻ tiểu nhân?

Không tranh cãi với kẻ tiểu nhân Khổng Tử có một cậu học trò rất thích tranh luận. Một hôm, người học trò này đến thăm Khổng Tử t...