Một nhóm thái giám triều Nguyễn - năm
1918.
(Ảnh tư liệu của Nhà nghiên cứu Phan Thuận
An.).
Thuở
còn rất nhỏ, khi đang còn sinh sống trong một làng quê thanh bình của xứ Huế.
Tôi thường nghe các bậc phụ huynh nói với nhau về một câu nói “đẻ
ông bộ cho làng nhờ”, câu nói này khiến tôi khá thắc mắc. Vì ông Bộ là
một nhân vật khá tiếng tăm trong làng tôi, đây là một chức sắc do làng đặt ra
để lo việc làng. Đây không phải là một chức danh hay một ngạch bậc trong bộ máy
nhà nước, nhưng do bộ máy làng là tự quàn nên các vị hương chức làng cũng có
một số quyền hạn nhất định. Đó là một con người lớn tuổi thường bệ vệ trang
nghiêm, có cốt cách đĩnh đạc ăn trên ngồi trước và thường là một nhà Nho. Với
làng tôi thì thứ bậc trong bộ máy làng có 4 bậc hương chức từ cao xuống thấp
như sau: bộ, hương, lý, kiểm. Nhưng tại sao bà con lại nói “đẻ” ra ông bộ ?
Và
tôi lại vô tình lao vào một cuộc tìm kiếm khá dài lâu tìm lời giải cho câu hỏi
này.
Như
nói trên đây, ông bộ (hay ông hương, ông lý…) họ thường là những người lớn tuổi,
không phải là những viên chức nhà nước hay trong bộ máy quản lý hành chánh
làng. Đây chỉ là những hương chức được đặt ra theo luật tục nhằm duy trì trật
tự và bảo vệ thuần phong mỹ tục của làng. Trong một làng có thể có nhiều ông
bộ, ông hương, ông lý và nhiều ông kiểm. Từ thời vua Tự Đức trở về trước, nhất
là trước khi người Pháp hoàn thành công cuộc xâm lược nước ta vào năm 1885; thì
các hương chức này thường do dân làng bầu. Họ hoặc là những vị quan chức về hưu,
những người có uy tín trong làng, những người có công với làng, những nhà Nho… . Nhưng từ sau khi người Pháp chiếm đóng nước ta do kinh phí nhà nước bị người
Pháp nắm nhằm phục vụ cho công cuộc xâm lược của họ; khiến cho kinh phí phục vụ xây dựng nông thôn VN bị hạn chế. Thì
một số các chức danh này thường được đem ra bán, để làng lấy tiền phục vụ cho
việc tu sửa đường sá đình chùa và phục vụ việc cúng tế trong làng.
Ai
có tiền thì có thể bỏ tiền ra mua các chức danh này, nên thường dẫn đến những
câu chuyện cười ra nước mắt là có một số ông bộ, hay ông hương trong làng không
biết chữ. Trong khi quy định trước đó là cấp ông bộ, sau đó là xuống cấp ông
hương là phải biết chữ (chữ Nho) - xin lưu ý là việc học hành thời xưa (học chữ
Nho) không phải dễ dàng như việc học chữ quốc ngữ ngày nay đâu.
Nhưng
tất cả rõ ràng muốn trở thành một ông “bộ”, đó phải là một người lớn tuổi –
không ai mới đẻ ra đã thành ông bộ được. Vậy cái thành ngữ “đẻ ông bộ ra cho làng nhờ”
là gì ? Và phải hiểu như thế nào cho đúng cái thành ngữ này ?
Tôi
đã bắt đầu cái sự tò mò của mình bằng cách hỏi những người lớn tuổi trong làng,
nhưng đa số họ đều không thể trả lời được theo ý tôi. Thậm chí một vài ông chú
trong họ là người hay sử dụng cái thành ngữ này nhất, nhưng khi tôi hỏi thì các
ông chú cũng không trả lời được, sau một hồi vòng vo cuối cùng các vị cũng ờ à
cho qua chuyện ?
Vậy
là tôi phải lao vào tìm tòi từ sách vở thôi.
Nhưng phải sau một quá trình rất dài tìm tòi tôi mới tìm ra được một lời giải rất đơn giản thậm chí là khá dễ dàng vì nó nằm ngay trước mắt tôi. Đó là câu chuyện về những viên thái giám, hay còn gọi là hoạn quan trong các cung cấm của các triều đại phong kiến VN xưa .
Chùa Từ Hiếu tại Huế - nơi thờ tự các hoạn quan triều Nguyễn
Cũng
giống như các triều đại phong kiến trước đây trong lịch sử của dân tộc, triều
đại nhà Nguyễn (1802 – 1945) vẫn duy trì việc sử dụng thái giám làm việc trong
cung cấm.
Thái
giám là những con người có số phận rất đặc biệt kể từ lúc mới chào đời (đối với
giám sinh), hay kể từ khi bị thiến (đối với giám lặt) cho đến ngày nhắm mắt
xuôi tay rời xa cõi thế.
Với
bài viết này, tôi hy vọng rằng sẽ cung cấp thêm một số kiến thức cho bạn đọc một câu chuyện còn ít người biết đến về cuộc đời của các thái giám trong triều
đại phong kiến cuối cùng của lịch sử Việt Nam .
Vốn
chịu ảnh hưởng của nền văn hóa phương Đông, nên các triều đại phong kiến Việt
Nam trong đó có triều đại nhà Nguyễn vẫn duy trì việc tuyển chọn thái giám để
hầu hạ trong chốn hậu cung của nhà vua.
Nghĩa trang chùa Từ Hiếu, nơi chôn cất các hoạn quan sau khi họ chết.
Vậy thái giám là ai ? Theo các tư liệu lịch sử còn lưu
lại cho đến ngày nay, thì thái giám có hai hệ, đó là "giám sinh" và "giám
lặt".
- Giám sinh :
Họ là những người con trai khi sinh ra vốn dĩ đã bị khiếm khuyết ở bộ phận
sinh dục mà dân gian ngày nay thường gọi là "lại cái" hay "ái
nam, ái nữ", đến tuổi trưởng thành không thể có khả năng quan hệ tình dục
với người khác giới. Theo quy định dưới thời phong kiến, gia đình nào sinh ra
một người con như thế phải lập tức báo với quan chức ở trong làng, rồi từ làng
báo lên tổng, lên huyện, rồi báo với Bộ Lễ trong triều đình đương thời. Đứa trẻ
ấy sẽ được ghi tên vào sổ theo dõi cho đến lúc cai sữa (có tài liệu cho rằng
khoảng 10 hay 11 tuổi) thì sẽ được đón vào cung nuôi nấng theo nghi lễ trong
cung. Đến tuổi trưởng thành, Bộ Lễ sẽ đưa vào nội cung để làm thái giám, phục
vụ những công việc thường ngày trong chốn hậu cung của nhà vua.
Theo quy định, làng nào có gia đình sinh được "giám
sinh" thì cả làng ấy được miễn thuế 3 năm và khi đứa con đó đã trở
thành thái giám thì cha, mẹ, anh em ruột thịt sẽ nhận được rất nhiều đặc ân của
triều đình. Những đứa trẻ đặc biệt ấy còn được người dân ( nhất là vùng Thuận Hóa – Phú xuân – Huế ) gọi là ông Bộ. Vì thế, mới
sinh ra câu chuyện « ông bộ »
rắc rối như nói trên đây .
Cho đến ngày nay thỉnh thoảng đâu đó chúng ta vẫn nghe
các bà, các mẹ, các o ở các vùng quê xứ Huế khi đi chợ gặp lúc thời giá đắt đỏ,
lại bị chủ hàng quán kèo nài mua hàng… thường là các bà, các mẹ buông một câu
"ăn thứ đó (mặt hàng đắt đỏ) để đẻ ông Bộ cho làng nhờ à…", hoặc là
trong những ngày hội hè ở các làng, xã, sau các hội thi mang tính tập thể, các
đội thắng cuộc thường rất vui vẻ một cách tột bậc thì người ta thường ví niềm
vui đó theo kiểu nói "vui như làng đẻ được ông Bộ".
- Giám lặt :
Ngoài những thái giám có nguồn gốc là "giám sinh" thì trong
hàng ngũ thái giám phục vụ trong Tử cấm thành còn có những ông "giám
lặt". Mà câu chuyện những thiếu niên bình thường được chọn sẽ bị
thiến từ khi còn nhỏ một cách khá đau đớn và dã man, sau đó bị đưa vào cung
nuôi, đã khiến cho một số nhà nhiên cứu văn hóa thế giới cho rằng đây là một
trong những tội ác của các chế độ phong kiến phương Đông. Sau
khi bị thiến, đứa trẻ nam trưởng thành sẽ bị rụng râu, rụng lông, ăn nói yểu
điệu, giọng the thé giống như con gái. Tất cả những bộ phận bị cắt bỏ sẽ được
sao tẩm để cất giữ lâu dài, khi được thăng chức sẽ đưa thứ ấy ra để trình làm
vật chứng và đến khi thái giám ấy chết thì "bảo vật" ấy sẽ được
chôn theo thi thể.
Hoa mưng (cây lộc vừng) rụng đỏ mặt hồ chùa Từ Hiếu
Tôi
cũng đã tham khảo một số tư liệu về chủ đề này của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc
Xuân, ông cho biết: Người làm thái giám trong cung gọi là hoạn quan. Hoạn có nghĩa
là làm tôi tớ. Nhưng từ hoạn quan làm người đời hiểu từ hoạn là thiến (ví dụ
như hoạn heo). Trong Tử cấm thành chỉ có một người đàn ông là đương kim hoàng
đế, còn lại toàn là các bà phi tần, nữ quan, thị nữ. Từ việc sai vặt, hầu hạ
vua và các bà hoàng thái hậu, các bà phi cho đến những việc nặng nhọc khác của
đời sống trong cung cần sức lực của người dàn ông đều giao cho các thái giám..
Thái
giám là những người thân cận nhất của vua và biết rất rõ về đời tư của vua;
thậm chí là những bí mật cung đình, những bí mật của triều đại. Nên ở một số triều Vua, họ đã tận dụng những điều này nhằm đem quyền lợi về cho mình, thậm chí có lúc họ còn can thiệp vào việc triều chính là một thế lực khá mạnh trong việc tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong triều đình. Vì vậy, để
tránh sự lộng quyền của các thái giám, nhà Nguyễn đã từng bước hạn chế những ưu
đãi và quyền lực của giới thái giám trong hoàng cung triều Nguyễn; chỉ sử dụng thái
giám trong cung vào những việc sai vặt chứ không cho can dự vào việc triều chính như các
triều đại trước. Bởi lẽ trước đó, nhà Nguyễn đã rút ra được một bài học về sự
lạm quyền của cận thần thái giám Lê Văn Duyệt thời Nguyễn sơ (thời vua Gia
Long).
Từ
các sự kiện trên, ngày mồng 1 tháng 12 năm Minh Mạng thứ 17 (tức ngày
17/3/1836) Vua Minh Mạng đã ra một chỉ dụ - Trong tờ dụ này, Vua Minh Mạng nói
rõ là thái giám từ nay không được có một danh tước gì mà trong bất kỳ trường
hợp nào họ cũng không thể được tiến cử vào hệ thống quan lại. Vua Minh Mạng
cũng đã nhắc lại trong tờ dụ là “ các
thái giám chỉ để sai khiến và truyền các mệnh lệnh trong chốn nội đình và họ
không được dính dáng đến việc triều chính, ai phạm phải quyết không dung tha ”.
Đồng thời cho khắc vào bia dựng trước Quốc Tử Giám (Văn Thánh) nêu rõ chủ trương này và truyền về sau cho hậu
thế. Chỉ dụ này đã chấm dứt những sự lạm dụng thái quá của các thái giám dưới các
triều Vua đầu thời Nguyễn .
Việc
Vua Minh Mạng ra chỉ dụ là nhằm hạn chế các ưu đãi đối với thái giám vốn dĩ
trước đó họ được hưởng, bên cạnh đó chỉ dụ còn hạ bệ các thái giám xuống địa vị
của những kẻ hầu hạ. Tờ dụ của Vua Minh
Mạng bắt buộc các thái giám không được đưa vào ngạch quan trường, nên đã tạo ra
cho họ một hệ thống giai cấp đặc biệt để sắp xếp các ngạch, bậc và quy định
lương bổng bằng lúa và quan tiền.
Đến
thời Vua Đồng Khánh - năm thứ 2 (1887) có một vài thay đổi về lương tính bằng
quan tiền được tăng lên. Đến thời Vua Thành Thái - năm thứ 2 (1890) lương của
thái giám hàng tháng nhận bằng lúa và quan tiền bị bỏ hẳn và thay bằng đồng
bạc.
Trong
đời sống và đặc biệt là sau khi Vua Minh Mạng cho ra tờ dụ vào năm 1836, bản
thân các thái giám không còn được hưởng bất cứ một vinh dự nào giống như các
quan chức khác ở trong cung. Tuy nhiên, các thái giám lại mang về cho cho người
thân một vài vinh dự. Theo quy định thì các thái giám nằm trong 3 hạng trên là
Thủ đẳng, Thứ đẳng và Trung đẳng có thể đứng ra xin cho cha họ chức Nhiêu phụ,
là chức được vĩnh viễn miễn thuế cũng như xin phong chức Miễn nhiêu (khỏi thuế
cả đời) cho anh em hay cho cháu. Các thái giám hạng tư (Á đẳng) hay hạng năm (Hạ
đẳng) thì không được xin gì cho cha mà chỉ có thể xin một chức Miễn nhiêu cho
anh em hay cháu mà thôi…
Đây
chỉ là một bài viết ngắn, trước là lời giải cho câu hỏi của chính tôi về một
tập tục trong một làng quê tại xứ Huế. Nhưng sau cũng là một tư liệu, một câu
trả lời - một lời khuyên cho những ai hiện đã và đang sử dụng câu nói “đẻ
ông bộ cho làng nhờ” một cách vô thức. Nói mà không biết mình nói gì
lại còn đi dạy bảo người khác là một điều hoàn toàn không nên./.
ĐKT
24.7.2012