Cầu Chấp Lễ trên quốc lộ 1A thuộc khu vực thị trấn Vĩnh Linh - nơi xưa kia là truông Nhà Hồ
"Thương em anh cũng muốn
vô
sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang.
Phá Tam Giang ngày rày
đã lặng
Truông nhà Hồ nội tán dẹp yên.”
Truông nhà Hồ nội tán dẹp yên.”
Đây là bài ca dao khá nổi tiếng được lưu truyền trong dân gian tại khu vực Thuận Hóa xưa, nhân dân vùng này cho rằng bài ca dao này liên quan đến một câu
chuyện tình trắc trở giữa anh hàn sĩ xứ Nghệ với cô lái đò trên sông Ô Lâu.
Tương truyền rằng, ngày trước có một anh hàn sĩ xứ Nghệ vào kinh thi hội đã đem
lòng thương yêu cô lái đò xinh đẹp ở bến cây đa trên sông Ô Lâu. Sau khi thi
đậu trở về, hai người hẹn ước với nhau sẽ kết nghĩa trăm năm.
Nhưng khi về đến Nghệ An, thì chàng không thực hiện được điều ước hẹn của mình vì cha mẹ quyết không cho chàng lấy vợ xa.
Bài ca dao này bắt đầu được lan truyền trong dân gian xứ Thuận Hóa (Quảng trị - Thừa Thiên ngày nay) từ đầu thời Trịnh – Nguyễn phân tranh (1623). Hai địa danh được đề cập trong câu ca dao này nay đều thuộc về hai tỉnh Quảng Trị (truông nhà Hồ) vả Thừa Thiên (phá Tam giang) đây là hai địa danh rất nổi tiếng trong thời kỳ này.
Nhưng khi về đến Nghệ An, thì chàng không thực hiện được điều ước hẹn của mình vì cha mẹ quyết không cho chàng lấy vợ xa.
Bài ca dao này bắt đầu được lan truyền trong dân gian xứ Thuận Hóa (Quảng trị - Thừa Thiên ngày nay) từ đầu thời Trịnh – Nguyễn phân tranh (1623). Hai địa danh được đề cập trong câu ca dao này nay đều thuộc về hai tỉnh Quảng Trị (truông nhà Hồ) vả Thừa Thiên (phá Tam giang) đây là hai địa danh rất nổi tiếng trong thời kỳ này.
Phá Tam Giang thuộc hệ thống đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Diện tích phá Tam
Giang hơn 50km2, trải dài khoảng hơn 20 km từ cửa sông Ô Lâu đến cửa sông Hương
thuộc địa phận 3 huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà của tỉnh Thừa Thiên -
Huế. Tương truyền phá Tam Giang thường có sóng thần rất lớn, mỗi khi tàu thuyền
qua đây thường bị "sóng ông, sóng bà" ở đây đánh chìm. Nhưng nguyên do chính là do cửa phá thông ra biển quá
hẹp nên sóng ở đoạn cửa phá thường rất dữ dội. Sóng to đến mức làm cho thuyền
bè ra vào cửa thường bị chìm và người ta cho đó là sóng thần.
Địa danh truông Nhà Hồ là một khu vực ngày nay nằm sát quốc lộ 1A giáp giới giữa xã Vĩnh Chấp (Vĩnh Linh, Quảng Trị)
và xã Sen Thủy (Lệ Thủy, Quảng Bình), cách thị trấn Hồ Xá (trước là làng Hồ Xá),
huyện Vĩnh Linh không xa. Theo lời kể của các bậc cao niên trong vùng thì trong
vùng này có một cộng đồng rất đông cư dân vốn là một nhánh của giới quý tộc nhà
Hồ (Hồ Quý Ly) sinh sống lâu đời ở đây. Nguyên là sau khi nhà Hồ bị quân Minh
lật đổ (năm 1408), con cháu Hồ Quý Ly đã di dân vào đây sinh sống, nhằm tránh
sự truy sát của quân Minh (hiện nay vẫn còn gia phả ghi chép sự kiện này), nên
mới có cái tên là truông Nhà Hồ. Trước đây truông Nhà Hồ là một vùng rừng rú
rậm rạp cây cối um tùm rộng bạt ngàn. Thời Trịnh – Nguyễn phân tranh vùng này từng
là sào huyệt của một nhóm thảo khấu rất nguy hiểm, ai đi qua đó cũng thường bị chúng
bắt bớ, giết chóc, để cướp của hoặc đòi tiền mãi lộ... nên
“truông nhà Hồ” đã trở thành mối đe dọa và ám ảnh nhiều người.
Nhóm thảo khấu này đã hoàng hành một thời gian khá dài gây nhiều khó khăn và tai ương cho cư dân trong vùng trước sự bất lực của quan chức địa phương.
Nhóm thảo khấu này đã hoàng hành một thời gian khá dài gây nhiều khó khăn và tai ương cho cư dân trong vùng trước sự bất lực của quan chức địa phương.
Ngày xưa (tức đầu thời Chúa
Nguyễn), từ phía Bắc muốn đi vào khu vực
thành Hóa Châu (nay thuộc huyện Quảng Điền) thì chỉ có đường bộ và đường thủy.
Đường bộ thì phải qua truông nhà Hồ và đường thủy thì phải vào phá Tam Giang.
Nhưng cả truông nhà Hồ và cả phá Tam Giang đều trở thành những mối đe dọa và uy
hiếp đến tính mạng, tài sản của những ai muốn vào vùng này. Trong suốt một thời
gian dài, truông nhà Hồ không chỉ là mối đe dọa đối với dân thường mà còn là
mối đe dọa cho cả nhà nước. Hàng hóa, lương thực của nhà nước chở qua truông
cũng bị cướp. Nếu tránh đường bộ qua truông nhà Hồ mà đi đường thủy vào phá Tam
Giang thì lại bị sóng nhận chìm. Thời đó, người ta “sợ truông nhà Hồ, sợ phá
Tam Giang” là vì vậy.
Năm 1722, Chúa Nguyễn Phúc Chu đã sai quan Nội Tán Nguyễn
Khoa Đăng đem quân đi tiễu trừ đám thổ phỉ này nhằm làm yên lòng dân. Và tim
cách khơi thông luông lạch ở cửa thông ra biển của phá Tam giang .
Nguyễn Khoa Đăng là người
thông minh nổi tiếng. Ông là người có công rất lớn trong việc dẹp yên bọn cướp
ở truông nhà Hồ và trị được sóng thần ở phá Tam Giang.
Sau khi cho người nghiên cứu
cách hoạt động của bọn cướp ở truông Nhà Hồ ông đã nghĩ ra cách để trừng trị
bọn chúng. Ông bố trí một đoàn xe chở lúa gạo và hàng hóa qua truông. Ông bố
trí một người lính được ngụy trang và bí mật ngồi trong thùng xe. Đáy thùng xe
có đục thủng một lỗ nhưng tạm thời được nút kín. Theo kế hoạch định trước khi
xe bị cướp thì người lính ngồi trên xe bắt đầu kéo nút ra để lúa rải ra dọc
đường và cứ thế kéo về tận sào huyệt của chúng. Sự việc diễn ra hoàn toàn đúng
như ông dự đoán. Nhờ có lúa rải dọc đường mà ông tìm ra sào huyệt bọn cướp và bố
trí bắt gọn. Sau vụ đó thì truông nhà Hồ trở nên yên ổn.
Khu vực cửa phá Tam Giang ngày nay, đây cũng là nơi con sông Hương đổ ra biển .
Để trị sóng thần trên phá Tam Giang, ông cho mời những người có nhiều hiểu biết về sông nước tới khu vực cửa phá để nghiên cứu thật kỹ tình hình và họ đã đi đến kết luận : Sóng dữ ở phá Tam Giang thực chất không phải là sóng thần như người ta đồn đại. Sóng dữ ở đây chủ yếu là do địa hình cửa phá quá hẹp tạo ra dòng nước chảy xiết, khi gặp gió lớn đã tạo nên những dòng nước xoáy rất nguy hiểm cho tàu thuyền khi ra vào cửa phá. Sau khi tìm ra nguyên nhân, một mặt ông sai người lặn xuống phá, đào bới mở rộng cửa phá. Nhưng mặt khác ông loan báo trong dân chúng là quan Nội tán sẽ dùng súng thần công bắn sóng thần trừ họa cho người dân. Vì nhân dân đã tin như vậy nên quan nội tán cũng dùng mê tín để trị mê tín.
Đến ngày đã định ông tổ chức
một buổi lễ bắn sóng thần công khai trên phá Tam Giang có đông đảo nhân dân hai
bên bờ chứng kiến. Sau khi làm lễ gọi “sóng thần” lên ông cho người mang
súng hướng ra phá, ra lệnh bắn. Hàng loạt tiếng súng ầm ầm vang lên, khói bốc
mù mịt. Tương truyền trên mặt phá, một luồng đỏ như máu từ từ loang ra. Nguyễn
Khoa Đăng bảo với mọi người là sóng thần đã bị trúng đạn chết, từ nay không
phải lo sợ nữa. Nhưng kỳ thật ông đã cho người
bí mật bỏ rất nhiều gói phẩm điều vào giữa phá làm cho nước phá đỏ ngầu. Ông
cho quân lính reo hò và báo cho nhân dân hai bên bờ biết là sóng thần đã bị bắn
chết và máu của thần đã chảy ra đỏ cả nước phá. Từ đó sóng thần không
còn, thuyền bè qua lại trên phá Tam Giang đều bình an vô sự.
Sự thật là nhờ mở rộng cửa nên sóng ở phá Tam Giang mới lặng đi. Nhưng vì có cái lễ bắn sóng thần rất oai phong do ông diễn nên nhân dân cứ tin tưởng là sóng thần đã bị quan nội tán bắn chết. Cùng với việc dẹp yên bọn cướp ở truông Nhà Hồ, quan nội tán cũng đã dẹp yên nạn “sóng thần” trên phá Tam Giang.
Như vậy bằng trí thông minh và những hiểu biết một cách khoa học, quan nội tán Nguyễn Khoa Đăng đã góp phần không nhỏ vào việc xóa tan hai biểu tượng khủng khiếp về “truông nhà Hồ” và “phá Tam Giang” từ lâu đã ám ảnh mọi người dân xứ Thuận Hóa (tức là tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên ngày nay).
Nỗi lo sợ về truông Nhà Hồ, phá Tam Giang không còn nữa, nhưng câu hát xưa vẫn còn. Nay dân gian đã ghi nhớ công lao của quan nội tán bằng cách chắp thêm hai câu ca dao nhằm ghi nhớ công ơn của quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng :
Phá Tam Giang ngày rày đã lặng
Truông Nhà Hồ nội tán dẹp yên.
LỜI KẾT:
Qua thực tế tìm hiểu ý nghĩa
bài ca dao trên đây, chúng ta thấy rằng, để hiểu một câu ca dao cổ không đơn
thuần chỉ dựa vào câu, chữ mà cần phải có những hiểu biết nhất định về lịch sử
là vô cùng quan trọng. Tránh tình trạng không thuộc sử mà cứ phát biểu lung
tung là vô cùng tai hại cho người đọc.
Cũng nằm trong một tình trạng
chung nữa của văn hóa VN hiện nay, đó là vì đoạn dân ca này đã rất nổi tiếng
của khu vực Bình Trị Thiên và cả nước. Câu ca dao cũng đã đi vào lòng người của
nhiều thế hệ người Việt nên đã có rất nhiều trường hợp “tam sao thất bản” như
thường thấy trong văn học dân gian VN gần đây, ví dụ:
Thương em, anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông Nhà Hồ nội tán cấm nghiêm…
Hoặc:
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông Nhà Hồ nội tán cấm nghiêm…
Hoặc:
Nhớ em, anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, ngại phá Tam Giang
Phá Tam Giang ngày rày đã lặng
Truông Nhà Hồ nội tán dẹp yên.
Truông Nhà Hồ nội tán dẹp yên.
Hoặc:
Thương anh, em cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
Phá Tam Giang ngày rày
đã cạn
Truông Nhà Hồ nội tán dẹp yên
Thương anh, em phải vô liền
Trong ni cơm gạo, của tiền thiếu chi !
……………………
Nhưng như đã nói ở trên, đây
chỉ là những “tam sao thất bản” không có giá trị về mặt văn hóa, không có giá
trị thực tế và hoàn toàn không có giá trị về mặt lịch sử.
Một câu chuyện khác là hiện có
nhiều nhà văn - nhà báo đã tìm cách chứng minh, diễn giải 04 câu ca dao này ra
nhiều hướng khác nhau theo kiến thức và ý thức hệ của mình.
Người ta thậm chí cho rằng “truông nhà Hồ” là một địa danh chỉ nơi sinh sống của
người Hồ - tức người Champa (Chiêm Thành) trước đây. Theo tôi thì điều này là
hơi bị kỳ cục vì châu Thuận – tức là tỉnh Quảng Trị ngày nay vốn là đất của
người Champa (trước năm 1302) thì nơi nào trong tỉnh này cũng là nơi sinh sống
của người Chiêm Thành cả!
Người ta
cũng thắc mắc khi cho rằng truông là gì ? Và tại sao trong tất cả các loại Từ
điển tiếng Việt hiện đại của VN hiện nay không có từ “truông”?
Thật vậy, trong rất
nhiều bộ Từ điển
tiếng Việt phổ thông, cả cũ lẫn mới đang lưu hành phổ biến hiện nay như "Từ điển Tiếng Việt" của Viện Ngôn ngữ (1988), "Từ điển Việt Nam" của Thanh Nghị
(1958)… đều không có chú giải từ truông. Và trong ca dao, tục ngữ… Việt Nam cũng không nhiều.
Ngoài câu ca dao cổ nói trên, ở vùng Bình Định có câu: "Chiều chiều én liệng truông Mây/ cảm
thương chú Lía bị vây trong thành". Là hai trong rất ít câu ca
dao cổ có sử dụng từ “truông” !
Từ truông nghĩa chính xác là gì, một địa danh, người hay vật
mà tự điển tiếng Việt không có chú giải?
Theo thực tế nghiên
cứu cho thấy, truông chỉ là một danh từ địa
phương, chỉ một vùng đất hoang rộng bạt ngàn, nhưng bằng phẳng lại có cây cối mọc
um tùm. Những vùng có địa hình địa vật như thế này tại khu vực Bình trị Thiên
là rất nhiều và khá phổ biến. Nhân dân tại đây còn có một danh từ khá phổ biến
hơn đó là “Rú”, để chỉ một vùng đất có địa hình địa vật tương tự nhưng nhỏ hơn.
Mà chính một phần còn lại của truông nhà Hồ khi xưa nay chính là “Rú” Tư Chính
tại thị trấn Hồ Xá, huyện Vĩnh Linh.
“Truông” hay “Rú” là
những vùng đất hoang tại khu vực đồng bằng, hay trung du tại khu vực Bình Trị
Thiên. Nơi có địa hình bằng phẳng, có cây cối mọc rậm rạp như rừng (nhưng không
có cây lớn) đây là một hình thức rừng nghèo phát triển tự nhiên khá phổ biến
tại khu vực này.
Đây chỉ là
hai trong rất nhiều danh từ
địa phương rất phổ thông và hiện nay vẫn đang được sử dụng rất bình thường tại
khu vực Bình Trị Thiên. Người
dân tại khu vực này ai cũng biết với những rú
sim, rú cà ổi, rú mân (lộc vừng), rú tràm… Với giới nghiên cứu văn hóa Huế thì
hai danh từ này cũng được họ sử dụng bình thường, như cơm ăn áo mặc hàng ngày
vậy. Vì trước đây trong những cuốn tự điển (tự vị) tiếng Việt xuất bản đầu tiên
ở nước ta như "Đại Nam Quấc Âm tự vị" (Hùynh Tịnh Của - 1894) và
"Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức" (1931) - một ở Miền Nam,
một ở Miền Bắc đều có mục từ “truông” và chú giải với gần như chung một nội
dung: “Đàng (đường) đi qua
rừng núi/ vùng đất hoang, cây cỏ mọc như rừng”.
Tức là một danh từ cổ mà tất cả người dân địa phương
thì biết, cư dân một vùng cũng biết; thậm chí trong tự điển cổ cũng có diễn
giải cụ thể. Nhưng trong những bộ Tự điển quốc gia mới xuất bản thì không có; vì những người biên soạn là những nhà khoa học mới, những nhà văn hóa mới với học hàm học vị
đầy mình và tiếng tăm thì nổi như sóng vỗ ba đào nhưng họ không biết gì cả ?
ĐKT
13.07.2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét