LỊCH SỬ, SỰ THẬT VÀ SỬ HỌC

"Tứ trụ" của nền sử học hiện đại VN:
(từ trái qua phải: GS Trần Quốc Vượng, GS Hà Văn Tấn, GS Phan Huy Lê và GS Đinh Xuân Lâm.)



Ai ai đều đã bằng câu hết
Nước chẳng còn có Sử Ngư!
Đó là hai câu thơ cuối cùng trong bài thơ cuối cùng của mười bốn bài “Mạn thuật” mà Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta. Thật là cay đắng, khi mà mọi người bị uốn cong như lưỡi câu, và chẳng còn ai nói lên sự thật nữa, chẳng còn ai như Sử Ngư nữa. Sử Ngư là người chép sử nước Vệ đời Xuân Thu, nổi tiếng về thẳng thắn và trung thực. Khổng Tử đã từng khen: “Trực tai Sử Ngư!” (Sử Ngư thẳng thay!).
Cho đến hôm nay, đọc câu thơ Nguyễn Trãi, chúng ta vẫn như tê tái với nỗi đau của ông. Làm sao có thể sống trong một xã hội mà mọi sự thật đều bị che đậy hay xuyên tạc. Trong những thời kỳ như vậy, người chép sử, nhà sử học, những người có nhiệm vụ nói lên sự thật, không biết bị dằn vặt đến thế nào?
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một giai đoạn mà nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật là yêu cầu của nhân dân, của đất nước. Đã đến lúc những người chép sử, những nhà sử học phải tự hỏi rằng: “Sử bút” của mình đã thật nghiêm chưa, đã viết đúng sự thật lịch sử hay chưa?
Lịch sử là khách quan. Sự kiện lịch sử là những sự thật được tồn tại độc lập ngoài ý thức của chúng ta. Nhưng sự nhận thức lịch sử lại là chủ quan. Và người ta chép sử vì những mục đích khác nhau.
Từ thời cổ đại, người ta đã đặt yêu cầu cho việc chép sử là nêu gương cho nhân dân và đem lại bài học cho những nhà cầm quyền. Polibius, nhà sử học Hy Lạp vào thế kỷ II trước công nguyên, đã nhận thấy rằng sử học có tính pagamtikos, tức thực dụng. Trong các vị thần Muses Hy Lạp, thì nữ thần Clio là thần sử học. Nhưng tên Clio là bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là Kleio, nghĩa là ca tụng, biểu dương.
Ở Phương Đông, Khổng Tử viết kinh Xuân Thu, bộ sử lớn của Trung Quốc cổ đại, là cốt để “bao biếm”, tức là khen và chê các hành vi của của các nhân vật lịch sử. Cái mẫu mực sử học thực dụng còn tồn tại rất lâu dài về sau, nhất là ở phương Đông. Ta hãy đọc những dòng của Phạm Công Trứ trong bài tựa sách Đại Việt sử ký tục biên: “Vì sao phải viết quốc sử? Vì sử chủ yếu ghi chép công việc. Có chính trị của một đời tất phải có sử của một đời. Mà sự ghi chép của sử giữ nghị luận rất nghiêm, tô điểm việc trí trị thì sáng tỏ ngang với mặt trời mặt trăng, răn đe kẻ loạn tặc thì ráo riết như sương thu lạnh buốt, người thiện biết thì có thể bắt chước, người ác biết thì có thể tự răn, quan hệ với chính trị không phải là ít. Cho nên mới làm ra quốc sử”.
Một mục đích thực dụng như vậy đặt ra cho sử học tất nhiên đã ngăn cản không ít việc nói lên sự thật lịch sử. Thường thì người ta chỉ chọn chép những sự kiện nào có lợi cho đường lối chính trị, hoặc là làm thay đổi sự kiện cho phù hợp với ý muốn của nhà cầm quyền.
Nhưng ngay trong hàng ngũ các nhà sử học thời cổ, cũng đã có người cho rằng cần làm thế nào để phục vụ đời sống và chính trị không làm hại đến thiên chức nói sự thật của nhà sử học. Chẳng những thế, họ còn cho rằng sử có chép đúng sự thật mới phục vụ tốt cho đời sống và chính trị. Ciceron ở La Mã đã gắn historia magistra vitae (lịch sử chính yếu của cuộc sống) với yêu cầu đạt tới lux veritatis (ánh sáng của sự thật). Trong Deoratore, ông đã viết: “Luật thứ nhất của chép sử là không dám nói cái giả mạo, luật thứ hai là dám nói tất cả những gì là sự thật”.
Còn Lê Quý Đôn của chúng ta, ở đầu tập Đại Việt thông sử, đã dẫn một loạt các câu nói của các nhà sử học đời trước để coi của các nhà sử học đời trước để coi việc chép đúng sự thật như một tôn chỉ của việc soạn sử. Và để giữ được tôn chỉ đó, cuối cùng, ông đã chép lại câu của Yết Hề Tư đời Nguyên: “Việc soạn sử phải lấy việc dùng người làm gốc. Người có văn học mà không biết cách chép sử thì không thể cho dự vào sử quán. Người có văn học, lại kiêm biết cách soạn sử, nhưng bụng dạ bất chính, cũng không được dự”.
Từ thế kỷ XVII, sử học thế giới đạt đến mẫu mực phê phán, đặt yêu cầu đem lại sự thật của quá khứ. Và từ cuối thế kỷ XIX, khi sử học đạt tới các mẫu mực cấu trúc và biện chứng, các hình ảnh của quá khứ mà sử học khôi phục được còn phải được đặt trong cái toàn thể và sự vận động.

Giáo sư Hà Văn Tấn

Từ khi chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử mácxít ra đời, khám phá ra cơ chế của sự phát triển xã hội, các nhà sử học được cung cấp một mô hình giải thích lịch sử có tính nhất thể - năng động, kết hợp cả hai mặt cấu trúc và biến đổi. Sử học vươn tới phát hiện quy luật và nhờ đó, sử học không những nhận thức được quá khứ mà còn chuẩn bị cho những khả năng dự báo. Nhưng sử học muốn thực hiện được những chức năng đó, khảo sát con đường đã qua và góp phần nhận thức con đường sắp tới, một điều kiện cơ bản là phải biết sự thật và nói lên sự thật.
Nhưng biết sự thật không dễ, và dám nói lên sự thật nhiều khi càng khó hơn. Với ý của Yết Hề Tư mà Lê Quý Đôn đã dẫn nhưng nói theo ngôn ngữ hiện đại thì như thế này: Muốn viết sử, phải biết phương pháp sử học, và trước hết, phải là người trung thực chứ không phải là tên cơ hội.
Viết sử là một nghề, nói như người Pháp là métier d’historien. Người viết sử phải được luyện rèn tay nghề. Các sách dạy nghề, tức các sách viết về phương pháp sử học, thường nói đến hai bước cơ bản trong công tác sử học: bước thứ nhất là từ sử liệu, khôi phục sự kiện, bước thứ hai là giải thích và đánh giá sự kiện.
Ngay từ bước thứ nhất, đã có những khả năng dẫn nhà sử học xa rời sự thật. Đó là vì sử liệu thiếu, và phổ biến hơn, vì sử liệu không được phê phán nghiêm túc. Người ta chia sử liệu ra làm hai loại: sử liệu trực tiếp và sử liệu gián tiếp.
Sử liệu trực tiếp xuất hiện cùng thời với sự kiện. Chẳng hạn trống đồng Ngọc Lũ, khẩu pháo Điện Biên, hay văn bản Hiệp nghị Paris…là sử liệu trực tiếp.
Còn sử liệu gián tiếp là sử liệu nói đến sự kiện này qua một người thông tin gián tiếp, tức tác giả sử liệu. Loại sử liệu này cần được giám định cẩn thận, vì thông tin nhận được đã qua trung gian người thông tin. Chẳng hạn hồi ký là sử liệu gián tiếp. Ở đây, các sự kiện xảy ra không đồng thời với sử liệu, tức là trước lúc hồi ký được viết. Nhà sử học Liên Xô M.N.Tchernomorski đã viết cả một quyển sách dày, có đầu đề Hồi ký với tư cách là sử liệu lịch sử, để trình bày các phương pháp nghiên cứu nguồn sử liệu gián tiếp này.
Hiện nay, nhiều công trình sử học của chúng ta đã sử dụng những nguồn sử liệu gián tiếp một cách thiếu thận trọng. Sử liệu gián tiếp bao gồm cả những lời kể về sau của những người đã chứng kiến sự kiện. Các nhà nghiên cứu lịch sử địa phương hay lịch sử hiện đại, lịch sử Đảng thường sử dụng nguồn tài liệu này. Những lời kể như vậy cần được phân tích so sánh với các sử liệu khác, nếu không, dễ dẫn đến tình trạng là cùng một sự kiện, có thể được trình bày rất khác nhau. Tình hình thường xảy ra là nếu người thông tin là người hiện có uy lực chi phối ở địa phương thì lịch sử sẽ được viết theo cách nhìn nhận của người đó.
Đối với các thời kỳ xa xưa, sự sai lầm càng dễ xảy ra, vì sử liệu càng hiếm hơn, khó kiểm tra hơn. Trong nhiều trường hợp để khôi phục sự kiện, nhà sử học phải vận dụng đến sự suy đoán logic, và thậm chí, cả sự tưởng tượng. Nhưng trong trường hợp sự kiện được trình bày mới chỉ là giả thuyết, thì điều đó phải được nói rõ, đừng để người khác tin rằng đó đã là sự thật đích xác. Trong nhiều công trình sử học hiện nay, cái mới chỉ là giả thuyết với cái đã là sự thật, thường bị làm lẫn lộn.
Chẳng hạn, không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ Nam quốc sơn hà Nam đế cư là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Nhưng đó chỉ là đoán thôi, làm sao nói chắc được bài thơ đó là của Lý Thường Kiệt. Thế nhưng, cho đến nay, mọi người đều tin rằng đó là sự thật, hay đúng hơn, không ai dám nghi ngờ đó không phải là sự thật.
Ta còn có thể dẫn ra nhiều ví dụ khác về những sự kiện chắc là không thật, thậm chí không thật mà nay nghiễm nhiên là “sự thật”, ngay cả trong các giai đoạn lịch sử gần đây.
Các nhà sử học thường dựa chủ yếu vào nguồn sử liệu viết. Mà nước ta, các văn bản sử liệu thường bị biến chuyển ghê gớm. Đó là chưa kể sự xuất hiện những tài liệu giả. Nếu trình bày sự kiện mà dựa vào sử liệu đã bị biến đổi hay sử liệu giả thì hiển nhiên không tránh khỏi sai lầm.
Chẳng hạn, quyển Binh thư yếu lược hiện có, được coi là của Trần Hưng Đạo, là một quyển sách giả từ đầu chí cuối. Các nhà nghiên cứu ở Viện Hán Nôm vừa làm một việc có ý nghĩa là chứng minh được quyển sách giả mạo đó đã hình thành như thế nào. Thế nhưng khi viết về cuộc kháng chiến chống Nguyên hay về Trần Hưng Đạo, một số người vẫn dùng quyển sách giả này. Thậm chí có lãnh tụ đã trích dẫn sách này trong diễn văn của mình. Đó cũng là lỗi của các nhà sử học, họ đã không thuyết minh đầy đủ khi cho in bản dịch tác phẩm giả mạo này.
Còn các văn bản bị biến đổi, sửa chữa qua các đời thì rất nhiều. Thậm chí cả các văn bản hiện đại. Ngay bức thư của chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các em học sinh mà hiện nay trong các trường phổ thông vẫn học, vẫn trích, cũng đã sai, khác quá nhiều với văn bản đầu tiên còn được cất giữ ở Cục lưu trữ trung ương. Các văn kiện khác cũng vậy. Về điểm này, cần học tập thái độ của Mác và Ăngghen khi cho xuất bản Tuyên ngôn Đảng cộng sản năm 1872, hai ông viết rằng: “Tuyên ngôn là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại”. Các nhà sử học đòi hỏi phải có một thái độ như vậy đối với các văn kiện lịch sử.
Trên đây là chuyện phê phán sử liệu và miêu tả sự kiện. Thực ra sự thật dễ bị che lấp hay xuyên tạc là ở bước thứ hai, giải thích và đánh giá sự kiện. Đó là vì công việc này phụ thuộc nhiều vào mặt chủ quan của nhà sử học như nhận thức, quan điểm và nhân cách.
Các nhà sử học chúng ta thường tự coi là người mácxít nhưng bệnh thiên lệch lại hay dễ mắc. Mà thiên lệch, cường điệu một cách phiến diện một mặt nào đó, lại là đặc trưng của chủ nghĩa duy tâm. Cũng chính vì vậy nhiều sự thật lịch sử đã bị bỏ qua.
Trong một thời gian dài, do một động cơ tốt là phải tập trung tinh lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các nhà viết sử chỉ chú ý đến các trang sử chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc. Không chỉ trong các công trình chuyên luận, mà cả trong các bộ thông sử, cũng chỉ tập trung khai thác truyền thống đánh giặc, giữ nước. Một nhà sử học Liên Xô, khi bình luận một quyển sử Việt Nam do Uỷ ban Khoa học xã hội xuất bản, đã có một nhận xét thú vị là các bản đồ trong sách, trừ một bản đồ hình thế chung, đều là bản đồ các trận đánh. Trong thời gian qua, hàng loạt các vấn đề về kinh tế - xã hội của lịch sử Việt Nam đã không được chú ý đầy đủ.
Cũng là đề cao truyền thống, chúng ta thường chỉ đánh giá một chiều, chỉ nhìn thấy cái hay cái tốt, dường như người ta không chấp nhận có truyền thống xấu. Đến nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, chúng ta đang cần đánh giá đúng đắn về con người Việt Nam mà phần lớn là tính cách, khả năng đã được quy định qua lịch sử. Phải phân tích trung thực và khoa học các ưu điểm và nhược điểm của con người Việt Nam, chứ không phải cái gì cũng khen.
Chúng ta đã được đọc cả một quyển sách dày đề cao truyền thống khoa học - kỹ thuật Việt Nam. Tôi nghĩ rằng trong lịch sử, nhân dân Việt Nam cũng đã đạt được một số thành tựu về kỹ thuật. Nhưng đề cao quá đáng truyền thống khoa học kỹ thuật của người Việt Nam xưa thì là một sự tô hồng không thật. Vả lại, đề cao ông nghè Vũ Hữu cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI đã tính đủ số gạch xây tường không thừa thiếu một viên, khi trên thế giới, không phải chỉ ở châu Âu (thời Copernic) mà cả ở A-rập (thời Al Kashi) đã có những công trình toán học cao, thì chỉ là làm một việc lố bịch.
Rồi người ta lại đề cao cả những truyền thống của làng xã cổ truyền, nhấn mạnh tính dân chủ của nó. Không hiểu vì sao các nhà sử học tự coi mình là mácxít lại có thái độ “dân tuý” đến như thế. Ngày nay, khi cái cung cách, cái tâm lý “việc làng” đang khoác áo xã hội chủ nghĩa đi giữa chúng ta, các nhà sử học phải xem xét lại thái độ của mình trong việc đánh giá cao làng xã cổ truyền.
Lịch sử Việt Nam anh hùng thật, vinh quang thật, nhưng trình bày nó lúc nào, chỗ nào cũng tốt đẹp cả, rực sáng cả thì quả là không thật. Nhà sử học không thể chỉ ngâm ngợi những thiên anh hùng ca mà không biết đến những khúc bi ca trong lịch sử.
Cũng thường thiên lệch, khi chúng ta đánh giá các nhân vật lịch sử. Con người là cả một hệ thống những mối liên hệ phức tạp, bị quy định bởi các điều kiện xã hội, tự nhiên và lịch sử. Thiếu một sự đánh giá xuất phát từ chủ nghĩa lịch sử dường như là căn bệnh chung của chúng ta. Một số người đã chê trách các nhân vật lịch sử vì họ không giống ta. Một số lại quá yêu các nhân vật đó, đến chỗ miêu tả tư duy và hành động của họ cứ y như là họ đã được học tập chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đã là con người, không phải là ông thánh, thì có lúc đúng, lúc sai. Đó là chuyện thường tình. Nhưng thật là không công bằng khi chỉ vì khuyết điểm của thời kỳ này, ta sổ toẹt hết cả công lao của nhân vật đó, khi ở thời kỳ khác, đóng góp của người đó là rõ ràng, không thể chối cãi. Nhà sử học Mácxít không thể chấp nhận một thái độ như vậy. Tại sao chúng ta không noi gương Lênin trong việc đánh giá nhân vật như Plêkhanốp?
Chúng ta hãy nhớ lời Mác: “Khoa học càng vô tư và không thiên vị thì càng phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của người công nhân”. Một nền sử học muốn tự biểu hiện là mácxít chân chính, chẳng những phải đặt cho mình nhiệm vụ khám phá chân lý của lịch sử, mà còn phải tỏ rõ khả năng đạt được sự thật khách quan.
Cho đến nay, nhiều học giả tư sản vẫn nghi ngờ tính khách quan của sử học. Ngay người bạn của chúng ta là Bertrand Russell cũng nói rằng: “Sử học chỉ là dẫn ra những ngu xuẩn ngày hôm qua để giúp con người chịu đựng được những ngu xuẩn ngày hôm nay”.
Chúng ta phải bác bỏ những luận điểm đó bằng cách chứng minh rằng nền sử học của chúng ta có khả năng đạt được sự thật khách quan, chứ đừng tiếp tục góp thêm chứng cứ cho những luận điểm đó./.

Những người sáng lập nền sử học hiện đại ngày nay.
(Hàng đứng từ trái qua phải: GS Trần Quốc Vượng, GS Hà Văn Tấn, GS Phan Huy Lê và GS Đinh Xuân Lâm và vợ chồng giáo sư Phan Văn Giàu)

  GS. HÀ VĂN TẤN
   
    * Ghi chú:
   - Nguồn:  Tạp chí Tổ quốc, tháng giêng, 1988.
   - In lại trong: Một số vấn đề Lý luận Sử học, Nxb ĐHQGHN, 2007




VIỆT NAM CÓ BỘ SỬ MỚI & CÁCH NHÌN NHẬN LỊCH SỬ MỚI.

Bộ sách Lịch sử mới gồm 15 tập - có giá 5 gần triệu đồng


Ngày 18/8, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam giới thiệu, phát hành bộ Lịch sử Việt Nam bao quát lịch sử nước ta từ khởi thuỷ đến năm 2000 do Viện Sử học Việt Nam biên soạn, gồm 15 tập. Bộ sách được hoàn thành trên cơ sở chương trình nghiên cứu trọng điểm cấp bộ (cấp Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), do Viện Sử học là cơ quan chủ trì.

Bộ sách được tập thể các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, các nhà nghiên cứu lịch sử của Viện Sử học biên soạn. Hơn 30 nhà nghiên cứu sử học mất 9 năm để biên soạn bộ sử 15 tập, dày gần 10.000 trang này. PGS TS Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, chủ tịch Hội khoa học lịch sử Việt Nam, là tổng chủ biên bộ sách. Ông cho biết:
“Khi thành lập Ủy ban khoa học xã hội VN, bây giờ là Viện Hàn lâm Khoa học & Xã hội VN thì GS. VS Nguyễn Khánh Toàn đã đưa ra kế hoạch nghiên cứu và biên soạn các bộ sách là lịch sử VN, lịch sử văn hoá VN, lịch sử văn học VN, lịch sử tư tưởng VN. Đấy cũng là tâm huyết của rất nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu sử học thuộc Viện khoa học xã hội VN. Sau đó, Viện đã chấp thuận cho chúng tôi biên soạn bộ thông sử VN với 15 tập.”

Hơn 30 nhà nghiên cứu sử học đã bỏ thời gian khoảng 9 năm để hoàn thành bộ sử này với hơn 10.000 trang. Đây là bộ thông sử quy mô chưa từng có từ trước đến nay ở VN, bộ sử ghi chép lại toàn bộ lịch sử VN - từ thời khởi thủy cho đến những năm 2000.”. Đây là bộ Thông sử Việt Nam lớn nhất, đồ sộ nhất từ trước đến nay. Bộ sách có giá trị lớn về lý luận, thực tiễn và xã hội. Với nội dung phong phú, toàn diện, nhiều tư liệu mới, có giá trị, bố cục chặt chẽ, được trình bày có hệ thống, Bộ sách Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến năm 2000 đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy, học tập và hiểu biết về lịch sử Việt Nam.

PGS TS Trần Đức Cường, Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Tổng chủ biên bộ sách.


PGS TS Trần Đức Cường cho biết "Đây là bộ thông sử quy mô chưa từng có từ trước đến nay ở Việt Nam", ông Cường khẳng định và cho biết “ bộ sách tiếp cận đa diện hơn các nhân vật, đưa vào nhiều nội dung mới như đánh giá khách quan công trạng của nhà Mạc, nhà Nguyễn, nói về chiến tranh biên giới Việt - Trung, có cách nhìn nhận mới về các chính thể tại miền Nam trước năm 1975… Tuy nhiên phần nói về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc được dư luận quan tâm nhất – với tên gọi mới là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam do Trung Quốc phát động.”.

Bộ sách đã có một cách nhìn nhận lịch sử khá mới. Một số sự thật lịch sử lần đầu được thừa nhận; một số vấn đề khá tế nhị cũng lần đầu được đưa vào sách. Nhưng quan trọng nhất là cách đánh giá và nhìn nhận lịch sử trong lần tái bản này được cho là khá cởi mở; không còn chủ quan và phiến diện như các bộ sử xuất bản từ sau năm 1954 cho tới nay.
Tuy nhiên để có được cách nhìn nhận mới này không phải là vấn đề một sớm một chiều; hoặc của riêng giới sử học như một số dư luận và một số báo giới trong mấy ngày nay đã nhìn nhận một cách thiếu suy xét. Mà đó là cả một quá trình, cả một sự chuẩn bị trong một thời gian dài từ cấp cao nhất cho tới các cơ quan chuyên môn mới có được quan điểm mới này. Đây là cả một quá trình đúc kết, so sánh, đánh giá ở cấp cao nhất; sau đó mới cho phép cơ quan chuyên môn công bố cách nhìn nhận lịch sử mới này. 
Đây không phải là quan điểm, hay cách nhìn nhận lịch sử mới của giới sử học, hay của một vị giáo sư, tiến sĩ hay của một nhà nghiên cứu lịch sử nào đó; mà là quan điểm mới của nhà nước. Việc công bố bộ sách lịch sử mới, với cách nhìn nhận lịch sử mới; và việc nó được công bố trong thời điểm nào là cả một sự tính toán vì lợi ích chung. 

  - Phần nội dung thu hút được sự quan tâm và chú ý của dư luận trong mấy ngày qua được viết trong tập 14, từ trang 351 đến 359; về "quan hệ với Trung Quốc và cuộc chiến tranh bảo vệ lãnh thổ của Việt Nam ở biên giới phía Bắc”. Đây là lần đầu tiên một bộ sách giáo khoa (SGK) đề cập chi tiết về chiến tranh biên giới năm 1979, trong đó nêu rõ cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam do Trung Quốc phát động.
Nội dung tóm lược từ mối quan hệ Việt - Trung sau năm 1975, những căng thẳng dẫn đến cuộc chiến nổ ra sáng 17/2/1979. Bộ sử đã gọi đích danh đó là "một cuộc chiến tranh xâm lược" trên toàn tuyến biên giới từ Lai Châu đến Quảng Ninh. Bộ sử đã nêu rõ lý do, nguyên nhân tại sao giới lãnh đạo Bắc Kinh phát động cuộc xâm lược này. Công bố rõ ràng đầy đủ những số liệu về quy mô cuộc chiến cả hai phía. Thống kê những thiệt hại của quân xâm lược, gồm số quân Trung Quốc, số xe tăng, đại bác bị dân quân Việt Nam tiêu diệt. Những thiệt hại từ phía quân dân ta, các thành phố, thị xã, thị trấn bị quân Trung quốc tàn phá, người dân bị giết...

Tổng chủ biên PGS TS Trần Đức Cường, phát biểu với báo giới tại buổi công bố sách: "Chúng tôi gọi rõ đó là một cuộc chiến tranh xâm lược, cho quân tiến vào sâu trong lãnh thổ nước khác 30 km, 50 km đánh phá, không phải xâm lược thì gọi là gì?", ông nói.
Có một điều nữa, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc không chỉ gói gọn trong khoảng tháng 2/1979 mà còn kéo dài. Cán bộ chiến sĩ của chúng ta còn phải hy sinh rất nhiều xương máu để đến khoảng năm 1988 thì mới có hòa bình tương đối ở biên giới phía Bắc.” ; cũng được đề cập rõ trong bộ sử ở lần xuất bản này !


Ông Dương Trung Quốc - Tổng thư ký hội khoa học lịch sử VN

Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết đây là một "nội dung quan trọng và cần thiết" và "đã có sự chuẩn bị kĩ từ lâu".
 Ông nhận xét: Các nhà sử học đều cho rằng, né tránh về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Trung Quốc trong SGK là một sai lầm lớn và 'có tội' với lịch sử dân tộc, việc chỉ thẳng Trung Quốc xâm lược Việt Nam là rất cần thiết.

Đề cập đến vấn đề này, ngay trong buổi giới thiệu bộ sách lịch sử này, nhà sử học Bùi Thiết, Thư ký Hội Sử học, nguyên Thư ký Viện Văn hóa thuộc Bộ VH-TT&DL khi được giới báo chí hỏi về quan điểm của mình, ông cho rằng đây là "điều đáng tiếc", và đã thẳng thắn cho biết quan điểm của mình về vấn đề mà một thời được cho là nhạy cảm này:
   ''Làm như thế là không phải với lịch sử. Tôi nói thẳng cái này là âm mưu thâm độc của Trung Quốc từ lâu. Họ muốn Việt Nam không dạy sử, không học sử nữa, hoặc làm lệch lạc nội dung lịch sử đi vì họ sợ sẽ ảnh hướng đến quan hệ với họ. Họ muốn xóa cái đó để ta hòa đồng với Trung Quốc. Gần 30 năm nay họ vẫn âm mưu làm điều đó", nhà sử học Bùi Thiết nhìn nhận.
   Ông cho biết: "Quan điểm của tôi là tất cả lịch sử phải viết lại hết chứ không phải chỉ là lịch sử cuộc chiến xâm lược do Trung Quốc phát động năm 1979 thôi đâu. Bởi vì sao? Bởi vì lịch sử chúng ta thường viết về chính trị, quá nặng nề về chính trị.
Chúng tôi là người viết sử, bản thân tôi cũng đang viết lại lịch sử cả bậc tiểu học, trung học cơ sở. Viết sử như hiện nay là rất không ổn. Không thể để dạy như thế được, dạy như thế là không phù hợp. Bây giờ bộ sách sử mới in ra thì mới "thòi" một ít tư liệu ra thôi, chứ chưa đầy đủ lắm đâu".
Về nguyên nhân chậm trễ khi đưa nội dung này vào sách giáo khoa lịch sử để giảng dạy trong nhà trường, nhà sử học Bùi Thiết cho giải thích: "Có nhiều nguyên nhân lắm. Tôi nói thẳng trong đó có cả nguyên nhân có thể một số người đang muốn giấu cuộc kháng chiến này của dân tộc. Bởi thế mà cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc này của chúng ta chỉ nằm ở phần dạy thêm. Nhưng làm như thế là không phải với lịch sử".
PGS. TS Trần Đức Cường khẳng định, "những người Việt Nam đương nhiên cần biết về sử Việt Nam, nhưng chúng ta cũng cần và muốn thế giới biết về sử của chúng ta. Chúng ta muốn cả thế giới biết và hiểu rõ bản chất cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc".
Cũng đồng với quan điểm này, nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng "Nói thẳng, nói thật là cần thiết. Bởi nếu càng né tránh thì sẽ càng dẫn đến những nhận thức khác biệt nhau, dẫn đến những sai lầm. Và có người sẽ lợi dụng điều này để xuyên tạc thì còn nguy hiểm hơn nhiều lần….Vấn đề là viết như thế nào để cho bạn đọc xem, tôi cho là vẫn cứ phản ánh trung thực thì tốt hơn. Khi nói đúng sự thực thì là chuyện bình thường. Còn trước kia chúng ta không nói đến hoặc né tránh thì đó mới là điều không bình thường.”

Biết rằng lịch sử thì rất dễ bị chi phối bởi không khí chính trị, ngoại giao, nhất là lịch sử đương đại. Vì thế mà lâu nay chúng ta cũng không lạ việc né tránh sự̣ kiện Trung Quốc xâm lược Việt Nam trong thời gian gần đây. Nhưng việc né tránh nói về vấn đề này trong dư luận xã hội, trong tuyên truyền và thậm chí cả trong dạy sử, viết sử, là một vấn đề gây nhiều bức xúc cho dư luận. Nhưng giờ thì trong bộ sử mới đã viết rõ về vấn đề này, chỉ thẳng là Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Tôi nghĩ rằng điều này là rất cần thiết trong tình hình hiện nay. Cũng bởi việc không né tránh mà đề cập đến một cách công khai những vấn đề được cho là tế nhị trong lịch sử sẽ giúp cho những người có trách niệm cao nhất của đất nước có được những nhận định đúng, sẽ đưa ra được những đối sách đúng đắn trong hiện tại và tương lai.

  - Trong lần tái bản này một vấn đề khá tế nhị nhưng cũng khá nhức nhối trong thời hậu chiến của lịch sử Việt Nam đương đại, đã được giải quyết. Đó là lần đầu tiên thừa nhận sự tồn tại một cách hợp pháp của chính thể Việt Nam Cộng Hoà, và những con người từng phục vụ cho chính thể đó !

Theo đó, đây là một thực thể đã từng tồn tại hợp pháp ở miền Nam Việt Nam gần 21 năm, Việt Nam Cộng Hoà là nối tiếp của Quốc gia VN. Đây là một thực thể quốc gia đã được 87 nước trên thế giới công nhận, là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực kể cả các tổ chức của Liên Hợp quốc và cũng từng đại diện cho miền Nam trên nhiều diễn dàn quốc tế. Chính thể này là đại diện cho một chính phủ trong hội nghị Giơ - ne - vơ, là một bên trong hòa đàm Pa- ri năm 1973. Thực thể này đã tồn tại có tính liên tục từ trước năm 1954 (từ ngày 7/12/1947) với danh xưng đầu tiên là Nhà nước Quốc gia Việt Nam do quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu và chính phủ do ông Trần Trọng Kim điều hành. Sau khi người Pháp rút khỏi miền Nam năm 1954, đã bàn giao miền Nam VN lại cho nhà nước Quốc gia Việt Nam. 
Đến ngày 26/10/ 1955, Ngô Đình Diệm đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại để làm quốc trưởng, nền đệ nhất cộng hòa ra đời. Sau đó tổ chức bầu cử tổng thống, mà Ngô Đình Diệm chính là tổng thống đầu tiên, ... sau nhiều biến động chính trị lần lượt rồi đệ nhị Cộng Hòa ra đời và tồn tại cho tới năm 1975.

Theo tôi, việc công nhận chính thể Việt Nam Cộng Hòa cũng không có gì là bất ngờ cả, thực ra đây chỉ là một việc làm chẳng đặng đừng trong tình hình hiện nay. Hay nói đúng hơn đây chỉ là một sự ngộ ra một cách khá muộn màng mà thôi. Vì có thừa nhận nó tồn tại mới có quyền kế thừa những gì nó có, kể cả biển đảo !

Thời gian từ năm 1975 tới nay, khi nhắc đến chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, nhiều người vẫn quen gọi là nguỵ quân, nguỵ quyền. Nhưng trong bộ sách mới này, một cách gọi mới, một danh xưng mới được nêu ra trung tính hơn là "quân đội Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn". Tức là khi phải thừa nhận chính thể Việt Nam Cộng Hòa là hợp pháp thì cũng phải công nhận những con người từng phục vụ cho chính thể đấy. Và việc gọi họ là "ngụy quân, ngụy quyền" bị bãi bỏ là đương nhiên. Theo ông Tổng chủ biên là "lịch sử cần phải khách quan, viết thế nào để cho mọi người chấp nhận mới là quan trọng".

 - Một điểm mới rất được công luận chú ý và  khá đồng tình là bộ sử đã đánh giá đầy đủ, khách quan trung thực hơn một số triều đại phong kiến Việt Nam, nhìn nhận đúng công lao của nhà Mạc, chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn.

Thực tế lịch sử cho thấy dù tồn tại không dài nhưng nhà Mạc là một trong những vương triều có đóng góp cho lịch sử Việt Nam. Khi Mạc Đăng Dung soán ngôi nhà Lê thì triều đại này đã không còn trong thời kỳ hưng thịnh như buổi ban đầu nữa. Khủng hoảng kinh tế xã hội rất rõ ràng, để giải quyết vấn đề đó thì Mạc Đăng Dung đã làm cuộc chính biến giành ngôi. Sự thật là các triều đại ra đời, phát triển rồi suy tàn là quy luật lịch sử. Từ thời Đinh, Lý, Trần đã vậy. Ngoài ổn định kinh tế, nhà Mạc còn phát triển về văn hóa, giáo dục, mở nhiều khoa thi, tìm nhân tài cho đất nước.

Câu chuyện của chúa Nguyễn, nhà Nguyễn cũng đã được nhìn nhận khách quan hơn. Các vị vua nhà Nguyễn đã không còn bị lớp hậu sinh gọi là thằng nọ - đứa kia nữa mà công lao của họ đã được ghi nhận một cách chính thức, trên các khía cạnh:
  - Các vị chúa Nguyễn và vua Nguyễn chính là những con người và triều đại có công nhất trong việc mở rộng bờ cõi về phía Nam. Cho người Việt khai phá vùng đất Nam Bộ; hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước mà anh em nhà Tây Sơn đã mở ra nhưng chưa hoàn thiện được; củng cố bộ máy chính quyền từ Bắc đến Nam; đặc biệt là xác định chủ quyền đất nước với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Thời đó, mỗi năm triều đình đều cử đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải đi tuần thú ở các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa bây giờ.
Dưới thời Nguyễn, văn hoá Việt Nam phát triển, nhiều công trình nay được thế giới công nhận di sản UNESCO như cung đình Huế. Trong khu vực Đông Nam Á bấy giờ thì Việt Nam là vương quốc hùng mạnh nhất.
Bên cạnh đó, triều đại này cũng có những sai lầm mà lịch sử lên án. Như việc Nguyễn Ánh cầu cứu 5 vạn quân Xiêm sang xâm lược là một sai lầm hết sức nghiêm trọng. Hay ký với Pháp những hiệp ước bất lợi, dựa dẫm vào Pháp, không chịu canh tân dù thời bấy giờ có nhiều nhân sĩ, trí thức có tư tưởng đổi mới như Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện… khiến đất nước bị lạc hậu đi, để rồi rơi vào tay ngoại bang gần một thế kỷ.

PGS TS Trần Đức Cường cũng đã thẳng thắn nhìn nhận là trong lần tái bản này; ban biên soạn đã có một số điều chưa thực hiện được, có thể gây ra nhiều thiệt thòi cho người đọc, gây khó khăn cho những người nghiên cứu sử và dạy sử sau này, đó là :
   - "Chúng tôi chưa có điều kiện tập hợp tất cả giới sử học trong cả nước.
   - Có rất nhiều các tư liệu của lịch sử VN ở Trung Quốc, Pháp, Mỹ, Nga, Nhật và nhiều nước khác nữa, vì điều kiện chúng tôi cũng chưa tiếp cận được
   - Hiện có rất nhiều tài liệu lịch sử quý giá hiện do các cơ quan an ninh, quân sự, cơ quan Đảng lưu giữ nhưng cho tới nay chưa được giải mật, để công bố cho nhân dân và các nhà nghiên cứu biết. Trong khi, các nước có quy định loại tư liệu nào trong 20 năm, 30 năm, 50 năm thì được bạch hoá, nhưng ở ta thì chưa có luật này.
  - Ngoài ra cũng có khá nhiều các tư liệu quý giá hiện còn nằm rải rác trên khắp cả nước mà những người biên soạn không có điều kiện tiếp xúc được.

 LỜI KẾT:

Lịch sử là khách quan. Sự kiện lịch sử là những sự thật được tồn tại độc lập ngoài ý thức của chúng ta. Nhưng sự nhận thức lịch sử lại là chủ quan. Và người ta chép sử vì những mục đích khác nhau"  (Hà Văn Tấn).
 Câu chuyện độc quyền chân lý, tạo ra nhận thức hay quản lý nhận thức thì thời nào cũng có. Và đối với giới sử học thì điều này chẳng có gì là mới mẽ cả. Cho nên trước yêu cầu của sử học là phải ghi chép lại đúng thực tế lịch sử, phản ánh một cách khách quan với quá khứ, nhận định đúng hiện tại và tương lai là cả một câu chuyện dài !

Hiện nay chúng ta đang có những khó khăn về việc nhận ra đâu là chân giá trị thực của văn hóa, xã hội VN; về hệ giá trị trong mỗi người Việt Nam cần phải hướng tới. Nhưng có một điều mà không phải ai cũng chú ý, đó là không một lĩnh vực xã hội, văn hóa nào có tác động trực tiếp tới công dân ngay từ lúc còn bé nhiều như sử học. Vì chính những bài học từ lịch sử mới có giá trị định hướng nhiều nhất cho mỗi con người trước khi bước vào đời. Những bài học lịch sử học được từ sử sách, qua lời giảng của thầy cô; qua những câu chuyện kể của ông bà, cha mẹ về những tấm gương trung liệt trong bảo vệ tổ quốc, những anh hùng dân tộc, những bậc danh nhân, những gương người tốt việc tốt … trong xã hội, trong gia đình, trong dòng họ với những người thật việc thật mới chính là những bài học có giá trị nhất.

Cho nên khi nói tới sử học là nói về những câu chuyện đã qua một cách chân thật nhất. Những giai đoạn lịch sử oai hùng của dân tộc được chép một cách đầy đủ nhất, nhưng những đau thương mất mát lớn trong lịch sử dân tộc cũng không được phép chép sơ sài. Những anh hùng lịch sử, những con người tốt việc tốt phải được nêu danh lên đầy đủ và chính xác; nhưng cũng không được bỏ qua những con người xấu việc xấu hoặc những sai lầm trong lịch sử.

Trách nhiệm của giới sử học là tổng kết lại, đánh giá những cái gì là giá trị, những gì là ưu điểm thì phát triển nó thành những bài học lịch sử, cho mọi người học hỏi noi theo. Với những con người xấu, những tai họa trong lịch sử, những khiếm khuyết mà những thế hệ trước mắc phải thì sử học cũng phải nói lên để mọi người biết để né tránh, hoặc lấy đó làm bài học để đi tới cái đúng hơn, tốt hơn.
Giáo dục lòng yêu nước thì có điều gì bằng việc lấy truyền thống yêu nước của tổ tiên trải qua hàng nghìn năm lịch sử, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách để chống quân xâm lược, chống các thế lực tàn bạo để có được đất nước ngày hôm nay.

Nhìn chung, trong lần tái bản này giới sử học đã đánh giá lịch sử một cách khách quan hơn, không còn phiến diện như trước đây, nhưng để nhận thức được đầy đủ và sâu sắc thì cả giới sử học nước nhà sẽ còn phải tiếp tục nghiên cứu. Hy vọng sẽ tiếp tục đi sâu hơn, toàn diện hơn về lịch sử Việt Nam.

Bộ sách ra đời còn là cơ hội giúp cho người đọc biết đâu là sự thật lịch sử dân tộc; đâu chỉ là truyền thuyết dân gian. Vì hiện nay có một hiện tượng là có một số người tuy mang danh là đang viết về lịch sử nhưng họ đã không phân biệt được sự thật lịch sử và huyền thoại. Hoặc họ đã cố tình đánh lận khái niệm khi cho rằng truyền thuyết là lịch sử. Thậm chí họ đã lấy những tư liệu dân gian, huyền thoại làm tư liệu lịch sử.
Hy vọng rằng sau khi bộ sách Lịch sử này ra đời, giúp cho người đọc có cơ sở so sánh, đối chiếu để biết đâu là sự thật lịch sử đâu chỉ là truyền thuyết dân gian ./.

ĐKT
19.8.2017

ĐÂU MỚI LÀ SỰ THẬT VỀ TRIỀU ĐẠI NHÀ ĐINH ?

Bia khẳng định niên hiệu và năm tại vị của các vị vua Nhà Đinh


       Ngày nay, qua các phương tiện thông tin đại chúng và qua sử sách vấn đề tìm hiểu về một triều đại trong lịch sử VN là một việc khá dễ dàng đối với tất cả mọi người, vì lịch sử đất nước của chúng ta vốn cũng không dài. Nhưng hiểu cho đúng về những gì sử chép thì không phải là một điều dễ dàng, thậm chí những gì được cho là của chính sử cũng rất dễ dàng thấy sự khác biệt. Vì sử mỗi thời mỗi khác, người chép sử ngoài sự thật thì vẫn có quyền lồng vào những nhận xét những quan điểm chính trị của mình, hoặc một số vấn đề còn buộc phải viết theo yêu cầu của sử quán.
     Đây là một sự thật, nên khi đọc những bộ chính sử người đọc cần phải có một số kiến thức căn bản về lịch sử mới biết đâu là sự thật.
     Riêng tôi khi học và đọc lịch sử Việt viết về triều đại Nhà Đinh, đã gây ra một số thắc mắc cho tôi trong nhiều năm nhưng không thể tìm thấy lời giải, theo đó nổi lên 02 câu hỏi khá lớn là:
   
   1/. Triều Nhà Đinh tồn tại bao nhiêu năm ?
     Theo cổ sử cho biết, triều nhà Đinh do Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh thành lập; đồng thời ông cũng chính là vị vua đầu tiên của triều đại nhà Đinh. Năm 968 (Mậu Thìn) Vạn Thắng Vương lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu là Tiên Hoàng đế (tục gọi là Đinh Tiên Hoàng) đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc Công; Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân (tổng chỉ huy quân đội) và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương. Bắt đầu một triều đại mới, một kỷ nguyên tự chủ cho nước Việt.
     Để tránh một cuộc đụng độ không cần thiết với nhà Tống lúc này đang cai trị nước Trung Hoa láng giềng và cũng nhằm tranh thủ được thời gian hòa bình càng dài càng tốt giúp nhân dân ổn định cuộc sống và xây dựng đất nước sau một thời gian dài chiến tranh loạn lạc. Năm Nhâm Thân (972), Vua Đinh đã sai con là Đinh Liễn mang đồ vật sang thần phục và xin triều cống nhà Tống. Sau đó Vua Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao chỉ Quận vương và phong cho Nam Việt Vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ.
     Năm Kỹ Mão (979) Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn bị tên Đỗ Thích giết chết. Nguyên Đỗ Thích vốn là một kẻ hầu cận của Vua, đêm nằm mơ thấy sao rơi vào mồm, tưởng là điềm báo được làm Vua, bèn định bụng sát hại minh chủ. Một hôm, hắn thấy vua Đinh say rượu nằm nghỉ trong cung bèn lẻn vào sát hại rồi tìm giết luôn cả Đinh Liễn.
     Triều thần đã tìm bắt được Đỗ Thích đem xử tội và tôn Vệ Vương Đinh Toàn lên làm Vua (lúc này mới 6 tuổi).
     Vua Đinh Tiên Hoàng có 5 bà Hoàng hậu : Đan Gia (mẹ của Đinh Liễn), Trinh Ninh (mẹ của Hạng Lang), Kiểu Quốc (mẹ của Đinh Tuệ), Cô Quốc (chỉ sinh con gái) và Ca Ông (mẹ của Đinh Toàn, ngày nay gọi là Dương Vân Nga).
     Nhưng cổ sử chỉ nhắc đến 3 người con trai là : Đinh Liễn, Đinh Toàn và Đinh Hạng Lang. Sau khi Đinh Liễn và Đinh Hạng Lang đã chết, thì mặc nhiên Đinh Toàn kế nghiệp ngôi vua. Vua còn nhỏ nên mọi quyền bính được giao cho mẹ là Ca Ông hay còn gọi là Dương Vân Nga làm nhiếp chính.
     Sử ngày nay viết rằng : "Dương Vân Nga thay con cầm quyền trị nước, với cái thế các đại thần trong triều phân liệt, tranh chấp gay gắt, có nguy cơ nội chiến. Ngoài biên ải, nhà Tống nghe tin Tiên Hoàng mất muốn thừa thế sang lấy nước Đại Cồ Việt đã hội đại binh gần biên giới. Ở cái thế vận mệnh quốc gia ngàn cân treo sợi tóc, cần phải có một người có đủ tài thao lược và uy tín để gánh vác trọng trách này và người đó không ai khác là Thập đạo tướng quân Lê Hoàn người đang là tổng chỉ huy quân đội."
     Và chỉ mấy tháng sau Lê Hoàn (980-1005) đã lên ngôi Hoàng Đế vào năm 980 (Canh Thìn) lập ra một triều đại mới mà sử gọi là Nhà tiền Lê (980-1009). Sử ngày nay do các sử quan cách mạng  viết rằng : “Dương Vân Nga đã lấy chiếc long bào choàng lên vai Lê Hoàn trong tiếng reo hò dậy trời của ba quân tướng sĩ….và…hành động của Dương Vân Nga đã biểu hiện thái độ chính trị sáng suốt của một con người, thức thời, có tầm nhìn xa, trông rộng xứng đáng được coi là anh hùng “.
      Như vậy Nhà Đinh chỉ tồn tại chính thức có 12 năm (968-980), là bị chấm dứt đưới triều vua Đinh Phế đế (Đinh Toàn).
   - Nhưng nếu căn cứ theo sử sách Trung Hoa, nhất là sử thời nhà Tống - đã cho chúng ta biết là sự thật không phải như vậy ?
   
    * Xin được kiến giải như sau:
     Trước hết xin nói một vài nét về những tư liệu mà tôi trích dẫn trên đây: Đây chính là những tư liệu từ bộ cổ sử chính thống và duy nhất còn lại tại VN hiện nay đó chính là bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư (chữ Hán: 大越史記全書). Bộ chính sử đồ sộ này gồm 15 quyển, ghi lại lịch sử Việt Nam từ thời điểm năm 2879 TCN (thời Vua Hùng) đến năm 1427 khi nhà Hậu Lê được thành lập. Bộ sử do sử quán nhà Hậu Lê biên soạn vào năm Hồng Đức thứ 10 (1479), do sử thần Ngô Sĩ Liên đứng đầu. Sau đó các triều đại sau này kể cả các nhà soạn sử ngày nay cũng lấy những tư liệu từ bộ sử này để soạn nên những bộ chính sử, sử dụng trong các trường phổ thông hiện nay và coi đó như là chính sử duy nhất của nước VN ngày nay.
      Nhưng từ những tư liệu nào và dựa vào đâu mà các nhà sử học thời Hậu Lê lấy làm căn bản để dựng lên lịch sử hàng ngàn năm trước đó của nước Việt là một câu hỏi cần phải làm rõ. Bởi như nhà sử học Dương Trung Quốc nói : “Không phải cứ nói đến “chính sử do những sử gia tên tuổi biên soạn đã là chân lý tuyệt đối. Bởi trước hết, nó là sản phẩm của những cá thể hay triều đại, dù uyên thâm đến mấy thì cũng vẫn có thể có sai sót và nhiều khi xuất phát từ những lợi ích không thể gọi là tuyệt đối vì dân tộc mà căn bản là của giới cầm quyền.”.


Đền Vua Đinh Tiên Hoàng tại Hoa Lư - Ninh Bình

      Ngay trong bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư, các sử quan nhà Hậu Lê cũng cho biết là họ chủ yếu dựa vào tư liệu chính từ hai bộ chính sử trước đó, gồm: Đại Việt Sử Lược (chữ Hán 略), (khuyết danh) viết khoảng năm 1127- 1140 (thời Lý) và Đại Việt Sử ký (chữ Hán: 大越史記) của Lê Văn Hưu (thời Trần – hoàn thành năm 1272). Nhưng hai bộ chính sử cổ nhất này của VN đã bị thất tuyền vĩnh viễn; hay nói đúng hơn là đã bị quân xâm lược phương Bắc tịch thu đem về Trung Hoa trong thời gian chúng xâm lược và chiếm đóng nước ta (1408-1428). Theo đó, toàn bộ sử sách tư liệu và thư tín của các triều đình Ngô, Đinh, Lý, Trần, Hồ trước đó đã bị quân xâm lược Minh truy tầm, tịch thu chở về Trung Hoa, phần còn lại thì bị chúng đốt phá tới tận cùng. Hai bộ chính sử đấu tiên này của nước Việt cũng cùng chịu chung số phận. Và được kết luận là đã bị thất truyền.
      Mãi cho tới thời Vua Càn Long nhà Thanh (1736-1795), bộ sách Đại Việt sử lược mới được tìm thấy trong nhà kho của "Khâm định Tứ khố Toàn thư" của triều đình nhà Thanh  tận bên nước Trung Quốc ngày nay. Riêng bộ sách Đại Việt Sử ký của Lê Văn Hưu thì bị thất lạc vĩnh viễn, cho tới nay vẫn chưa tìm thấy.
      Cho nên những gì mà các sử quan thời Hậu Lê có được chỉ là một số bản chép tay với từng đoạn rời rạc của hai bộ sử này còn lưu truyền trong dân gian, sau nhiều năm truy tầm một cách rất khó khăn của sử quán Nhà Hậu Lê .
      Cho nên chúng ta - là những con cháu và hậu duệ của nhà Đinh, chúng ta có quyền nghi ngờ về tính chính xác về thời gian tồn tại của triều đình nhà Đinh. Vì như phân tích trên đây về tính chính xác của những bộ sử và những tư liệu để các nhà viết sử viết nên những bộ chính sử tồn tại đến nay. Còn chỉ cho chúng ta biết – khi các sự kiện xảy ra trong những năm cuối dưới triều nhà Đinh (năm 980), cho tới khi bộ sử Đại Việt sử ký toàn thư được soạn ra hoàn chỉnh (năm 1479) cũng đã là 500 năm.
     Vâng, 500 năm với biết bao vật đổi sao dời, với ít nhất là 25 thế hệ con người đã ra đời rồi chết đi, với biết bao thể chế chính trị tồn tại rồi suy vong. Vậy các nhà sử học dựa vào đâu để viết nên những bộ chính sử ?
    Cho mãi tới gần đây tôi mới được biết, các sử quán và sử quan thời nhà Lý, nhà trần, nhà Hồ và nhà Hậu Lê; khi viết nên các bộ sử nổi tiếng nói trên phần lớn dựa vào các bộ sử lớn của các triều đình phong kiến Trung Hoa cùng tồn tại song song với các nhà nước VN đương thời. Nhất là thời gian từ thời nhà Lý trở về trước (1010-1225) thì các sử quan chỉ dựa hoàn toàn vào một nguồn tư liệu duy nhất đó là các bộ sử lớn của các triều đại phong kiến bên Trung Hoa; để viết nên lịch sử nước Đại Việt từ thời Lý trở về trước.
     Cho nên sau khi nghiên cứu từ nguồn sử sách Trung Hoa nhất là sử thời nhà Tống (tiếng Hán: 宋朝) (960-1279); được biết thời gian tồn tại của triều nhà Đinh thực sự không phải như sử Việt chép !
     Theo sử thời nhà Tống cho biết: Do nhà Đinh chịu thần phục  nhà Tống và hàng năm đều triều cống cho thiên triều, nên nhà Tống xem nước ta như là một chư hầu của họ. Nhà Tống thường cử các sứ thần qua nước ta giám sát việc trị quốc của triều đình nhà Đinh. Các sứ thần của họ hầu như sống thường trực trong các dịch quán tại kinh đô Hoa Lư. Tình hình nội trị của nhà Đinh khó thoát khỏi con mắt của các sứ thần này, nhất cử nhất động các biến cố chính trị của triều đình đều được họ báo cáo thường xuyên về triều đình nhà Tống. Tất cả những biến cố và tình hình nội bộ của nước ta được sử quán nhà Tống ghi chép lại khá đầy đủ và còn lưu lại cho tới ngày nay.
     Theo đó, khi vua Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn bị sát hại năm Kỷ Mão (979), Đinh Toàn lên ngôi hiệu là Phế Đế năm 980, khi nhà vua chỉ mới 6 tuổi.
     Các đại thần nhà Đinh như Đinh Quốc công Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp sau đó đã phát hiện Lê Hoàn có hành vi tư thông với Dương Vân Nga để tiếm quyền thiếu đế. Các vị đại thần này đã cử binh mã đến đánh Lê Hoàn nhằm ngăn cản việc này. Nhưng Lê Hoàn với toàn bộ binh lực triều đình nắm trong tay và đã chuẩn bị sẵn đã nhân dịp này giết sạch các đại thần. 
    Cuộc đảo chánh lật đổ triều nhà Đinh của Lê Hoàn đã thành công, toàn bộ hoàng tộc và tôn thất nhà Đinh cùng toàn bộ đại thần thân cận thời lập quốc của vua Đinh Tiên Hoàng đã bị Lê Hoàn tiêu diệt sạch !
     Tống sử chép lại khá rõ sự kiện này, và cho biết :  “các sứ thần đã trình báo về Khai Phong tình hình cuộc đảo chánh này của Lê Hoàn cho triều đình nhà Tống … và xin chỉ dụ”. Tống Thái Tông (trị vì 976-997) sai sứ đem thư qua khuyến dụ và đe dọa trừng trị việc tiếm ngôi của Lê Hoàn. Nhưng Lê Hoàn vẫn chối và cho rằng không có việc tiếm quyền. Và mình chỉ là một tôi thần trung liệt đang phò ấu chúa và khéo léo lấy danh nghĩa con của vua Đinh Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Toàn, xin nhà Tống cho Đinh Toàn nối ngôi vua cha.  Tuy nhiên triều đình nhà Tống nắm rõ tình thế, biết Lê Hoàn đã giành ngôi của Đinh Toàn, con của Đinh Tiên Hoàng, nên sai người đem một thư khác qua nói rằng “…Họ Đinh truyền nối được ba đời (ý chỉ Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Đinh Toàn), trẫm muốn cho Đinh Toàn làm thống súy, khanh (chỉ Lê Hoàn) thì làm phó.  Nếu Đinh Toàn không đáng tướng tài, hãy còn tính khí trẻ con thì nên cho ngay mẹ con và thân thuộc y sang đây…”
      Lê Hoàn biết không thể tiếp tục thương lượng và hợp thức hóa việc tiếm quyền của mình, trước con mắt giám sát trực tiếp của các sứ thần nên chỉ còn con đường duy nhất là chuẩn bị lực lượng để kháng Tống. Quân Tống sau đó lấy danh nghĩa đem quân sang Đại Cồ Việt trừng phạt việc chiếm ngôi nhà Đinh của Lê Hoàn, đại quân Tống đã chia làm hai đường thủy bộ tiến vào nước ta năm 981 (Tân Tỵ).  Đường bộ do Hầu Nhân Bảo cùng Tôn Toàn Hưng tiến theo ngả Lạng Sơn, còn đường thủy do Trần Khâm Tộ và Lưu Trừng từ mặt biển tiến vào bằng đường sông Bạch Đằng.
     Trên đường bộ, Hầu Nhân Bảo tiến đến Chi Lăng (Lạng Sơn), trúng phải kế trá hàng, lọt vào vùng phục kích của quân Việt, bị bắt giết. Quân Việt phản công mạnh mẽ, quân Tống thiệt hại nặng, hai bộ tướng của Hầu Nhân Bảo là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị bắt.  Sau trận Chi Lăng, các lực lượng thủy bộ của nhà Tống đều rút lui.
     Tuy chiến thắng, nhưng nhà Đinh – lúc này do Lê Hoàn với danh nghĩa là phó tướng của vua Phế Đế (Đinh Toàn); năm 982 (Nhâm Ngọ) vẫn phải sai sứ sang kinh đô Khai Phong của nhà Tống xin nghị hòa, trả lại hai tướng đã bắt được, xin được thần phục và triều cống lại như cũ. Nhà Tống chấp thuận nhưng chỉ phong cho Lê Hoàn làm Tiết độ sứ, là một tôi thần phục vụ dưới triều vua Phế Đế (Đinh Toàn). 
     Sử nhà Tống cũng có ghi chép rõ việc tự thoái vị của Vua Đinh Phế Đế. Đó là vào năm Quý Tỵ (993), Vua Đinh Phế Đế sai sứ sang kinh đô Khai Phong của nhà Tống tại Trung Hoa; trình bày với vua Tống rằng mình là người hay đau ốm và bệnh tật thường xuyên, do thể trạng yếu đuối nên không thể kham nổi việc triều chính nay tự xin thoái vị và đề nghị nhường ngôi cho Lê Hoàn. Tống Thái Tông qua những báo cáo thường xuyên của các sứ thần, đã biết việc Lê Hoàn nắm quyền từ lâu, nhưng không có cách gì khác hơn, nên sai sứ sang phong Lê Hoàn làm Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ Giao Chỉ Quận Vương (vua Giao Chỉ).
      Như vậy, theo sử thời nhà Tống (960-1279), thì Lê Hoàn chỉ làm vua từ năm Quý Tỵ (993) tới khi mất là năm Ất Tỵ (1005); và từ năm 979 tới năm 992 Lê Hoàn vẫn chỉ là một tôi thần của Vua Đinh Phế Đế (Đinh Toàn).
      Như vậy triều Nhà Đinh tồn tại từ năm 968 cho tới năm 993 (tức là 25 năm); chứ không phải chỉ 12 năm (968 – 980) như sử ngày nay viết lại ?


Tượng vua Phế Đế tại Hoa Lư - Ninh Bình

    2/. Vệ Vương Đinh Toàn (tức Vua Phế Đế) làm vua bao nhiêu năm và lý do tại sao ông mất ?
      Theo lịch sử Trung Hoa thời nhà Tống có ghi chép khá đầy đủ về câu chuyện này. Vì như trình bày trên đây vào thời nhà Đinh và nhà Tiền Lê, nước ta bị xem là một chư hầu phiên thuộc của các triều đình phong kiến đương thời tại Trung Hoa, cụ thể giai đoạn này thuộc nhà Tống. Nên tình hình chính sự của các phiên thuộc được sử nhà tống ghi chép lại khá đầy đủ và coi đó như là sử của chính quốc (thiên triều).
     Qua sử nhà Tống cho biết Vệ vương Đinh Toàn lên ngôi năm Kỷ Mão (979) khi chỉ mới 6 tuổi, khi vua cha là Đinh Tiên Hoàng bị một tên thị vệ ám sát. Vua ở ngôi 14 năm, tới năm Quý Tỵ (993), vì lý do bệnh tật vua đã làm chiếu tâu với vua Tống xin truyền ngôi lại cho bộ tướng là Tiết độ sứ Lê Hoàn. Vua Tống lúc này là Tống Thái Tông (trị vì 976-997) đã chuẩn y và phong cho Lê Hoàn làm Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ Giao Chỉ Quận Vương.
     Nhưng theo các bộ sử Việt ngày nay thì cho rằng“ Đinh Toàn (sinh năm 974) nhường ngôi lại cho Lê Hoàn năm 980, được mẹ là bà Dương Vân Nga (lúc này trở thành Hoàng hậu của triều Lê), và Lê Hoàn nuôi nấng cho đến lúc trưởng thành. Sau được phong tước vương gọi là Vệ Vương, ông hy sinh năm 1001(năm 27 tuổi) khi đang cùng vua Lê (Lê Hoàn) đánh dẹp giặc Man Cử Long”.
     Trước đây nhiều năm, khi đọc đến đoạn sử liệu này trong các bộ sử mới do các nhà sử học Mác xít biên soạn, tôi đã có thái độ hoài nghi và cho rằng các nhà sử học cách mạng "chép" không đúng sự thật. Vì theo kiến thức của tôi thì không thể có chuyện như vậy được; nhưng tôi đã không tìm thấy tư liệu nào phản biện lại dữ liệu này của các nhà viết sử lúc ấy. Chỉ mãi cho tới gần đây, khi đã có điều kiện tôi mới tìm thấy một số tư liệu chính thức từ chính sử thời nhà Tống của nước Trung Hoa là có thể trả lời cho câu hỏi này. Tuy chỉ là một phần sự thật, nhưng đã có thể giúp cho những hậu duệ của nhà Đinh hiểu được một sự thật, một giai đoạn đau thương của lịch sử dòng Họ Đinh chúng ta. 
     Qua đó cho thấy, trong tất cả 03 bộ cổ sử của VN nói trên đây không hề có chi tiết này. Cổ sử Trung Hoa thời nhà Tống cũng hoàn toàn không có một dòng nào nhắc tới câu chuyện này. Vậy đâu là sự thật ? 
     Bởi theo văn hóa Á đông, nhất là văn hóa và hệ tư tưởng của các dân tộc như Trung Hoa và Việt Nam khi một triều đại quân chủ mới lên ngôi, nắm quyền sinh sát thiên hạ trong tay, việc đầu tiên của triều mới là tìm mọi cách tiêu diệt sạch hoàng tộc và đại thần của triều cũ. Tục có câu “diệt cỏ phải diệt cho tận gốc”; dù cho các cuộc chuyển giao quyền lực này có diễn ra trong hòa bình, nhưng hầu như không bao giờ thoát khỏi quy luật khắc nghiệt này.
     Nhưng tại sao vua Đinh Phế Đế (Đinh Toàn) lại thoát khỏi quy luật này và sống tới năm 27 tuổi mới mất ?
     Như trình bày trên đây, cuộc đảo chánh lật đổ nhà Đinh của Lê Hoàn đã gặp sự phản đối quyết liệt của nhà Tống; để tránh một cuộc đối đầu trực tiếp với nhà Tống quá mạnh, dưới danh nghĩa bảo vệ Nhà Đinh. Lê Hoàn đã phải sử dụng hình tượng vua Đinh Phế Đế, tránh con mắt dòm ngó của các sứ thần nhà Tống. Nhiều năm sau khi tiếm ngôi Nhà Đinh (980), Lê Hoàn vẫn tự xưng là một tôi thần của nhà Đinh; một quan đại thần trung liệt đang phò thiếu đế. Được nhà Tống xem như là cấp phó của Vua Đinh Phế Đế và chỉ được nhà Tống phong làm Tiết độ sứ. 
      Mãi tới 13 năm sau, vào năm 993 (Quý Tỵ), sau nhiều cuộc tiếp xúc ngoại giao khéo léo; Lê Hoàn mới được Tống Thái Tông sai sứ sang phong Lê Hoàn làm Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ Giao Chỉ Quận Vương (vua Giao Chỉ).
      Và như lịch sử đã ghi nhận với nhiều trường hợp tương tự; khi hình tượng của Vệ vương Đinh Toàn không còn giá trị lợi dụng và nhà Vua mới đã được “Thiên triều” phong vương, thì nhà vua cũ không còn lý do gì để tồn tại cả. Nên không thể có câu chuyện Vệ Vương Đinh Toàn còn sống được thêm 08 năm và phải tới năm 1001 ông mới "hy sinh" khi đang làm làm nhiệm vụ - “ông hy sinh năm 1001(năm 27 tuổi) khi đang cùng vua Lê (Lê Hoàn) đánh dẹp giặc Man Cử Long”, như sử ngày nay viết !
      Tôi là một người đam mê môn sử từ nhỏ và là người thuộc khá nhiều bộ sử của nhiều triều đại và chính thể khác nhau từ xưa tới nay. Sau này làm công tác báo chí và nghiên cứu sử, tôi đã có điều kiện tiếp xúc với nhiều quan điểm chính trị khác nhau về sử học. Nên chỉ cần một đánh giá thiếu khách quan về lịch sử là chúng tôi biết đó là đúng hay sai. Nhưng biết chỉ để mà biết, còn sử dụng sự hiểu biết của mình như thế nào là một câu chuyện khác. 
    Cho nên khi các sử gia ngày nay cho rằng vua Đinh Phế Đế (Đinh Toàn) sau khi mất ngôi năm chỉ mới 7 tuổi (năm 980), sống được tới tận năm 27 tuổi (1001) trong điều kiện tôn thất nhà Đinh đã bị tiêu diệt và ông chú duy nhất (Đinh Điền) đã bị chính Lê Hoàn giết, mẹ lại lấy kẻ thù làm chồng - thì đây là điều mà bất cứ ai nếu có một chút kiến thức về lịch sử, văn hóa của VN cũng không bao giờ tin được. Bởi sử là phải chép chứ không phải là sáng tác !
    Vì nếu những ai say mê môn sử hoặc nghiên cứu về lịch sử nước Việt chắc cũng đều biết về câu chuyện xảy ra sau đó hơn 200 năm khi Thái sư Trần Thủ Độ (1194-1264) đã tiêu diệt tôn thất triều Lý như thế nào ? 
    Chỉ trong vòng vài năm sau khi lập mưu soán ngôi vua của nhà Lý (1225), Trần Thủ Độ đã tiêu diệt sạch sành sanh một dòng họ tôn thất rất đông đúc của một triều đại hùng mạnh từng tồn tại hơn 200 năm trước và xóa hẳn tên dòng họ này ra khỏi lịch sử các dòng họ của nước Việt Nam.
    Nhân đây xin lược lại câu chuyện này để mọi người tham khảo ; cũng để biết nhận định trên đây của tôi là đúng hay sai và biết như thế nào là tính đúng sai của một bộ sử :
      - Theo các bộ sử Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục;  Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sĩ và mới đây là Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim (Nhxb Văn hoá Thông tin, 1999. Trang 126); trong các bộ sử này các nhà sử học đã viết khá chi tiết về câu chuyện này !
     Theo đó, nhà Trần lấy được thiên hạ từ tay nhà Lý đều do mưu lược của Trần Thủ Độ. Chính nhân vật lịch sử này là người sau đó đã ra lệnh tiêu diệt toàn bộ tôn thất nhà Lý cũng như tất cả những gì có liên quan đến họ Lý và triều đình nhà Lý tại VN thời ấy. Khiến cho một triều đình nhà Lý hùng mạnh từng tồn tại hơn 200 năm (1010-1225) với tôn thất đông đảo và dòng họ Lý - đã hoàn toàn biến mất dưới bàn tay truy sát của Trần Thủ Độ như chính lời ông nói “ Nhổ cỏ phải nhổ cho tận gốc !” .
      Sự kiện này bắt đầu từ năm Giáp thân 1224, vua Lý Huệ Tông lập công chúa Phật Kim làm thái tử rồi truyền ngôi cho công Chúa, tức Lý Chiêu Hoàng, sau đó ra tu tại chùa Chân Giáo. Quyền bính nằm trong tay thái hậu Trần Thị Dung và Trần Thủ Độ. Hai người này vốn là anh em họ nay lại tư thông với nhau.
      Tới tháng 10 năm Ất Dậu 1225, Trần Thủ Độ mưu tìm cách cho Lý Chiêu Hoàng thành hôn với cháu ông ta là Trần Cảnh mới lên 8, rồi tìm cách dàn dựng để Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho chồng. 
      Đến đây quyền bính chính thức chuyển từ nhà Lý sang tay nhà Trần. Trong một chuyến viếng thăm chùa Chân Giáo nhằm thăm dò ý tứ của cựu hoàng Lý Huệ Tông, lúc này đã là một nhà sư chân truyền. Thấy Huệ Tông đang nhổ cỏ trong sân chùa, Trần Thủ Độ nói bóng gió với Huệ Tông: “Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc.”, ngay sau đó (tháng 8 năm Bính Tuất 1226), chính Trần Thủ Độ đã bức tử nhà vua tại chùa Chân Giáo. Thái hậu Trần Thị Dung bị giáng xuống là Thiên cực công chúa để có thể lấy Trần Thủ Độ làm chồng.
     Nhằm tận diệt dòng dõi tôn thất nhà Lý tới tận cùng, Trần Thủ Độ gả các cung nhân và con gái tôn thất nhà Lý cho các tù trưởng ở các vùng miền núi.
     Nhà sử học – nhà chính trị Trần Trọng Kim, đã viết trong tác phẩm Việt Nam Sử Lược của ông  Thủ Độ đã hại hết cả dòng dõi nhà Lý, lại muốn cho hậu thế không ai nhớ đến họ Lý nữa mới nhân vì tổ nhà Trần là Lý, bắt trong nước ai là họ Lý đếu phải cải là họ Nguyễn”.
     Một hành động khác khá là dã man của Trần Thủ Độ mà ngày nay sử sách vẫn còn ghi chép lại, đó là sự kiện năm 1232: " ... nhân dịp con cháu nhà Lý còn sót lại tụ họp ở thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm để làm lễ cúng tổ tiên, Trần Thủ Độ cho đào sẵn một cái hố thật sâu, dựng nhà lên trên, bắt con cháu nhà Lý đứng lên trên để mà cúng tế, rồi cho quân lính giật nhà đổ sau đó chôn sống toàn bộ tôn thất nhà Lý”. (Hoa Lâm nay là huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh, là hành cung của nhà Lý thuở xưa).
     Trong bối cảnh chính trị hoàn toàn bất lợi như thế, nhân vật tôn thất nhà Lý nào còn sống sót đều phải cao bay xa chạy để thoát nạn tận diệt của Trần Thủ Độ, mà câu chuyện hoàng tử Lý Long Tường và gia đình ông đã phải đào thoát qua tận nước Cao Ly xin tỵ nạn chính trị là một ví dụ điển hình nhất. 
      Hoàng tử Lý Long Tường vốn là chú của vua Huệ Tông, là ông nội chú của đương kim hoàng đế Lý Chiêu Hoàng. Hoàng tử Lý Long Tường là con trai thứ 7 của Vua Lý Anh Tông (1138-1175), do Hiền Phi Lê Mỹ Nga sinh ra, ông sinh vào năm Giáp Ngọ (1174), lúc này Vua Anh Tông sử dụng niên hiệu Chính Long Bảo Ứng (1163-1173) (vị vua này có tới 04 niên hiệu). Đây là một người văn võ song toàn, có tầm ảnh hưởng quan trọng trong tôn thất nhà Lý lúc ấy. Nên sau khi Trần Cảnh được vợ là Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi. Trần Cảnh lên ngôi lấy hiệu là Trần Thái Tông, bước đầu triều Trần nhằm che mắt triều thần và nhằm mua chuộc lòng dân; bằng cách phong Lý Long Tường làm Thái sư Thượng trụ quốc, Khai phủ nghị đồng tam tư, Thượng thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc, tước Kiến Bình vương – tức là thống lĩnh hải quân.
     Nhưng lúc này thực tế quyền lực của triều đình đều đã nằm gọn trong tay Thái sư Trần Thủ Độ; vị thái sư này bắt đầu ra tay tận diệt tôn thất nhà Lý một cách quy mô và công khai. 
     Hoàng tử Lý Long Tường là vị thân vương duy nhất của triều nhà Lý còn sót lại với những chức tước địa vị khá cao, nhất là đang nắm thực lực binh quyền (Đại đô đốc hải quân) cho nên hoàng tử đã lo sơ bị Thái sư Trần Thủ Độ ám hại. Để cứu vãn gia đình và dòng họ thoát khỏi sự tàn sát của Trần Thủ Độ, chỉ một năm sau sau khi Trần Cảnh lên ngôi (năm 1226) tức năm Kiến Trung thứ nhì – Hoàng tử Lý Long Tường quyết định vượt biên ra nước ngoài tị nạn chính trị; ông đã cùng gia đình và một số tôn thất nhà Lý phải bỏ nước ra đi. 
     Họ đã phải giong thuyền qua tận nước Cao Ly xin tỵ nạn và được vua Cao Ly cho tá túc. Vì là một vị tướng soái của triều Lý nên sau đó hoàng tử Lý Long Tường đã giúp vua Cao Ly kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ thành công. Và được sử sách Triều Tiên (cả Hàn Quốc) lưu danh, được nhân dân Triều Tiên dựng tượng, lập đền thờ cho tới tận ngày nay.
    
  * LỜI KẾT:
     Trách nhiệm của những người nghiên cứu sử là không bao giờ được phép thỏa mãn với những gì đã có sẵn. Công việc của họ là phải tìm tòi khám phá những cái mới, những điều chưa ai biết hoặc chưa được công bố. Điều này không có nghĩa là họ phải phủ nhận những cái cũ, nhưng trách nhiệm của họ là phải tìm ra trong những điều đã có đó, đâu là sự thật - đó là cái mà ngày nay người ta gọi là SỬ HỌC.
     Tuy nhiên khi viết nên những dòng trên đây, tôi không có tham vọng là muốn "đánh giá lại lịch sử" nhưng chúng ta là con cháu họ Đinh, chúng ta có quyền biết đâu là sự thật của lịch sử dòng họ mình./.  

ĐKT
21.12.2016

Tài liệu tham khảo

1. Hà Thiên Niên, “Lược thuật về thư tịch cổ Trung Quốc qua các thời đại viết về Việt Nam”, in trong “Học báo nhân học Đại học sư phạm Tây Nam”, Khoa học Xã hội nhân văn, số 11/2002, tr. 129-133.
2. Trương Tú Dân, “An Nam thư mục đề yếu”, Tập san Thư viện Bắc Kinh, số 1/1996.
3. Minh sử, quyển 321 “Liệt truyện” thứ 209, phần 2 “Ngoại quốc” – “An Nam”
4. Nghiêm Tòng Giản (đời Minh), “Thi vực châu tư lục”, quyển 5, “An Nam”.
5. Trịnh Tủng (đời Tống), “An Nam kỷ lược” ; “Tống sử”, quyển 488, Liệt truyện thứ 247.
6. Lý Tiên Căn (đời Thanh), “An Nam tạp ký”.
7. La Viết Quýnh, “Hàm Tân Lục” Nam Di Chí, quyển 6,
8. “ Đại Nam Nhất Thống Chí ” bộ dịch của Tụ Trai Nguyễn Tạo, Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn   
      ấn hành năm 1961.
9. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, của Ngô Sỹ Liên, bản dịch của Viện Sử Học, xuất bản năm 1971- 1973
       ( 25 quyển).
10. Việt sử thông giám cương mục.
11. Đại Việt địa dư toàn biên.
12. Đại Việt sử lược, khuyết danh, gồm 03 quyển
13. Đại cương Lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục.
14. Việt Nam Sử Lược, của Trần Trọng Kim, nhà xuất bản Hà Nội ấn hành năm 1999.
15. Lịch sử Việt Nam tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội năm 1971.
16. Các Triều đại Việt Nam của Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng, NXB Thanh Niên, 2010.
17. Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, của Hà Văn Thư – Trần Hồng Đức, nhà xuất bản Văn hóa
Thông tin , năm 2010.
18. Từ điển Nhân vật Lịch sử Việt Nam của Nguyễn Quỳnh Thắng – Nguyễn Bá Thế.
19. Sử ký Tư mã thiên, Phan Ngọc dịch, NXB Văn hóa Thông tin, 1999.
20. Lịch sử Thế giới của Nguyễn Hiến Lê - Thiên GiangNXB Văn hóa Thông tin, 1998.
21. Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn hóa Thông tin, 1996.
22. Trung Quốc sử lược của Phan Khoang, NXB Văn hòa – Thông tin, Hà Nội năm 2002.
23. Lịch sử văn minh Trung Quốc của Will Durant, Nguyễn Hiến Lê dịch, NXB Văn hóa Thông tin, 2004.
24. Sử Phật giáo thế giới, tập 1: Ấn Độ - Trung quốc ; tập 2: Phật Giáo Tích Lan,  Myanmar, Thái Lan, Laos, Campuchia của thiền sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh.
25. Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, của Viên Trí, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
26. Các bộ phái Phật giáo Tiểu thừa của André Bareau; Pháp Hiền dịch, NXB Tôn giáo, 2003.
27. Lịch sử Phật giáo Việt Nam , của GS. Lê Mạnh Thát, Tập I,II,III NXB Thuận Hóa, 1999-2001.
28. Việt Nam Văn hóa Sử cương của Đào Duy Anh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh 1992.
29. Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam, tập 1+2+3 của Nguyễn Khắc Thuần, nhà xuất bản giáo dục, 1997. 

---------------------------------------------


Vì sao người quân tử không tranh cãi với kẻ tiểu nhân?

Không tranh cãi với kẻ tiểu nhân Khổng Tử có một cậu học trò rất thích tranh luận. Một hôm, người học trò này đến thăm Khổng Tử t...