Chân dung cựu Thượng tá tình báo quân đội - Đinh Xuân Long
LỜI GIÓI THIỆU
Trước
năm 1858, các quốc gia trên bán đảo Đông Dương là những nước hoàn toàn riêng
biệt, không có bất cứ một liên hệ nào về chủ quyền, chính trị và văn hóa – xã
hội. Nhưng từ cuối thế kỷ XIX, khi thực
dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách đô hộ lên Việt Nam (1885),
Campuchia (1863) và Lào (1893). Sau đó người Pháp tuyên bố thành lập một thực
thể gọi là “Đông Dương thuộc Pháp”; về khách quan, các nước trên bán đảo
Đông Dương biến đổi thành một đơn vị hành chánh chung hoàn toàn mới, có những
mối ràng buộc chặt chẽ về chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa,…và vì
thế, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, Lào,
Campuchia đã có những tác động nhất định, ảnh hưởng mật thiết lẫn nhau.
Sau đó
gần một thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân Pháp, do có cùng một kẻ thù và
chung một cảnh ngộ bị xâm lược và áp bức, hai dân tộc Việt - Lào đã gắn bó với
nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Phát huy truyền thống đoàn kết
hữu nghị sẵn có, nhân dân hai nước Việt Nam - Lào dễ dàng đồng cảm, liên kết tự
nhiên với nhau và tự nguyện phối hợp với nhau trong một vận mệnh chung đấu
tranh chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập, tự do.
Từ phong
trào Cần Vương dưới ngọn cờ yêu nước của Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết (tháng
7 năm 1885) đến những năm 20 thế kỷ XX, diễn ra nhiều cuộc khởi nghĩa và các
hoạt động đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Nhiều phong trào trong số đó nhận
được sự ủng hộ giúp đỡ của nhân dân Lào tại vùng sát biên giới Lào - Việt, chạy
dài từ Hạ Lào, Trung Lào lên Thượng Lào. Đặc biệt, trong những năm đầu thế kỷ
XX, cuộc khởi nghĩa Hạ Lào do Ông Kẹo và Ông Cômmađăm lãnh đạo (1901- 1937)
phối hợp với nghĩa quân dân tộc Xơđăng ở Tây Nguyên (Việt Nam); phong trào
chống Pháp của người Mông ở Tây Bắc Việt Nam do Chạu Phạpắtchây lãnh đạo (1918
- 1922) lan rộng trên địa bàn nhiều tỉnh biên giới hai nước thuộc Thượng Lào và
Tây Bắc Việt Nam, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại.
Tuy nhiên
các phong trào trên đều bị chính quyền thực dân đàn áp, dập tắt. Cho nên việc
xác định con đường cứu nước đúng đắn và xây dựng mối quan hệ đoàn kết giữa các
dân tộc trên bán đảo Đông Dương là những nhiệm vụ cấp bách đặt ra cho các nhà
lãnh đạo phong trào yêu nước và cách mạng tại xứ này.
Tại Huế trong
một thời gian dài phong trào đấu tranh tại đây khá trầm lắng; ngoài lý do nói
trên cũng có một lý do khác mà lý do này hiện gây ra nhiều tranh cãi trong giới
học giả tại Huế. Đó là tính chính danh của phong trào chống Pháp tại đây; bởi
trên danh nghĩa người Pháp vẫn giao cố đô Huế cho nhà Nguyễn quản lý (Huế vẫn
của An Nam) nên không có lý do gì để chống lại người Pháp cả. Tuy nhiên theo
thời gian, lớp quan lại và sĩ phu yêu nước tại Phú Xuân – Huế đã sớm nhận ra dã
tâm muốn chiếm đóng lâu dài nước ta của thực dân Pháp; nên họ đã bắt đầu tham
gia các phong trào chống sưu cao thuế nặng, chống đàn áp ….. Sau khi Đảng CS
Việt Nam ra đời, nhất là sau khi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bị đàn áp dữ dội,
giới trí thức tại Huế đã tham gia mạnh mẽ các phong trào đấu tranh do Đảng lãnh
đạo; từ các phong trào này đã có rất nhiều Đảng viên Cộng sản ưu tú là người
Huế đã trưởng thành và trở thành những lãnh đạo của Đảng và nhà nước sau này
như Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Lê Đức Anh.
Tháng 02-1930, Đảng
Cộng sản (ĐCS) Việt Nam ra đời tạo tiền đề cho việc thành lập ĐCS Đông Dương,
vào tháng 10-1930, nhận trách nhiệm lãnh đạo cách mạng Đông Dương, đánh dấu
bước ngoặt quan trọng trong phong trào đấu tranh nơi đây.
Từ
giữa năm 1930, phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam bùng lan trong cả
nước, đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh. Sau khi bị người Pháp đàn áp khốc liệt,
đã có hành loạt những gia đình những đảng viên, những văn thân, những chí sĩ
yêu nước ở các tỉnh vùng khu 4 cũ như Bình Trị Thiên, Thanh Nghệ Tĩnh phải di
tản sang Lào. Sau sự kiện này các chi bộ Đảng và đoàn thể quần chúng của người
Việt ở Lào đã hình thành.
Đây chính là những hạt giống đỏ lãnh đạo phong trào đấu tranh ủng hộ phong trào cách mạng Việt Nam, chống âm mưu địch gây thù hằn và kỳ thị giữa người Việt và người Lào…. Cũng chính từ những hạt giống đỏ này đã hình thành nên tổ chức Đảng ở Lào, Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời Ai Lao (tức Xứ uỷ lâm thời Ai Lao) được thành lập vào tháng 9 năm 1934. Sự ra đời của Xứ uỷ Ai Lao là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử đấu tranh yêu nước của nhân dân các bộ tộc Lào, khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Lào đối với cách mạng Lào cũng như đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ giữa phong trào cách mạng hai nước Việt Nam – Lào (1).
Đây chính là những hạt giống đỏ lãnh đạo phong trào đấu tranh ủng hộ phong trào cách mạng Việt Nam, chống âm mưu địch gây thù hằn và kỳ thị giữa người Việt và người Lào….
Trong dòng người di tản sang vùng Trung Lào giai đoạn 1930 – 1940 có gia đình của một chí sĩ yêu nước, một Đảng viên Đảng CS Đông Dương người họ Đinh, quê ở làng Đồng Di, xã Phú Hồ, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông thuộc hàng thế hệ những người cộng sản đầu tiên tại khu vực Trị - Thiên – Huế, là một trong số những đảng viên cộng sản thuộc đảng Cộng sản Đông Dương được cử sang xây dựng phong trào cộng sản tại phần lãnh thổ nước Lào thuộc Pháp lúc ấy. Ông đã mang theo cả gia đình sang vùng Trung Lào sống hợp pháp.
Ngày 12 tháng 10 năm 1945, trong cuộc mít tinh lớn tại sân vận động thành phố Viêng Chăn, Chính phủ Lào Ítxalạ đã làm lễ ra mắt và trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể nhân dân nền độc lập của quốc gia Lào. Vị chí sĩ người họ Đinh đã được phân công làm đại đội trưởng trong đội quân bảo vệ chính phủ lâm thời Lào.
Gia đình này khá đông con (5 người) và sau này họ đều là những đảng viên của Đảng CS VN, họ là những công chức, có người đãm nhận những trọng trách cao trong xã hội và đều thành công trong cuộc sống. Trong giới hạn của bài viết này tôi chỉ xin được giới thiệu người con cả, đó là - ông Đinh Xuân Long (sinh năm 1930) người khi chỉ mới 15 tuổi rưởi (1946) đã là một chiến sĩ trong đội quan tình nguyện Việt – Lào tham gia bảo vệ chính phủ lâm thời của nước Lào vừa mới được thành lập.
Ngày 12 tháng 10 năm 1945, trong cuộc mít tinh lớn tại sân vận động thành phố Viêng Chăn, Chính phủ Lào Ítxalạ đã làm lễ ra mắt và trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể nhân dân nền độc lập của quốc gia Lào. Vị chí sĩ người họ Đinh đã được phân công làm đại đội trưởng trong đội quân bảo vệ chính phủ lâm thời Lào.
Gia đình này khá đông con (5 người) và sau này họ đều là những đảng viên của Đảng CS VN, họ là những công chức, có người đãm nhận những trọng trách cao trong xã hội và đều thành công trong cuộc sống. Trong giới hạn của bài viết này tôi chỉ xin được giới thiệu người con cả, đó là - ông Đinh Xuân Long (sinh năm 1930) người khi chỉ mới 15 tuổi rưởi (1946) đã là một chiến sĩ trong đội quan tình nguyện Việt – Lào tham gia bảo vệ chính phủ lâm thời của nước Lào vừa mới được thành lập.
Một buổi họp mặt của những cựu chiến binh quân tình nguyện Việt - Lào đang sống tại Huế
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TẠI LÀO GIAI ĐOẠN 1940
– 1953:
Tuy
nhiên tại Lào từ năm 1940, phong trào cách mạng gặp nhiều khó khăn, bị địch
khủng bố, một số sĩ quan, cảnh sát, trí thức và công chức người Lào có tinh thần
dân tộc phải lánh sang Thái Lan, tìm đường liên lạc với Đồng minh chống Nhật,
Pháp. Họ đã liên lạc với tổ chức Việt kiều ở Thái Lan để hoạt động.
Cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam và Lào càng trở nên gắn bó, khi Hội nghị Trung ương
lần thứ 8 (5-1941) khẳng định: “Cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện
nay là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”; chỉ rõ lúc này vấn đề đấu tranh
không phải là giải phóng riêng rẽ từng xứ, mà các dân tộc Đông Dương phải thành
lập các đoàn thể phản đế để đi đến thành lập Mặt trận dân tộc thống
nhất phản đế Đông Dương. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 quyết định thành lập
Việt Nam độc lập đồng minh (Việt minh); đồng thời, chủ trương hết sức giúp đỡ
Lào tổ chức Ai Lao độc lập đồng minh(1).
Bên cạnh
sự hoạt động của lực lượng Lào yêu nước, bộ phận Việt kiều tại Lào cũng đẩy
mạnh hoạt động phối hợp với nhân dân Lào đấu tranh nhằm thực hiện mục tiêu độc
lập dân tộc ở Việt Nam và Lào. Từ năm 1943, “Ban vận động Việt kiều Lào - Thái”
được thành lập và nhanh chóng tiến hành gây dựng cơ sở trên địa bàn Lào. Đến
năm 1944, Ban Vận động Việt kiều chuyển thành Hội Việt kiều cứu quốc. Để thống
nhất việc chỉ đạo phong trào cách mạng, phát triển lực lượng cách mạng, những
đồng chí trung kiên trong Hội Việt kiều cứu quốc thành lập Đội Tiên phong (2)
để chỉ đạo phong trào cách mạng ở Lào. Đội Tiên phong làm nhiệm vụ và đóng vai
trò của Xứ uỷ lâm thời Ai Lao.
Đầu năm 1945, “Tổng
hội Việt kiều cứu quốc toàn Thái - Lào” - một chi nhánh của Mặt trận Việt Minh
được thành lập nhằm hưởng ứng và tham gia công cuộc giành độc lập của xứ sở.
Ngày 9-3-1945,
phát xít Nhật tiến hành cuộc đảo chính lật Pháp, độc chiếm Đông Dương. Tại Lào,
sau ngày đảo chính lật Pháp, phát xít Nhật vẫn duy trì bộ máy thống trị cũ của
thực dân Pháp, chỉ thay thế vị trí các quan chức người Pháp trước đây bằng các
võ quan Nhật. Chúng kích động tinh thần dân tộc hẹp hòi, tuyên truyền thuyết
Đại Đông Á của Nhật để chia rẽ nhân dân Lào với nhân dân các nước Đông Dương.
Thực hiện
chủ trương của Đội Tiên phong, “Tổng hội Việt kiều cứu quốc toàn Thái - Lào”
nhanh chóng xây dựng và củng cố các chiến khu ở các tỉnh Sacon Nakhon, Nakhon
Phanôm, Nỏng Khai, Mụcđahản (Thái Lan) để huấn luyện quân sự nam nữ thanh niên,
cấp tốc xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang chuẩn bị khởi nghĩa giành
chính quyền ở Lào. Một chi bộ Đảng cùng các đoàn thể Việt kiều cứu quốc được
thành lập tại Viêng Chăn.(1)
Nhật Bản
đầu hàng Đồng minh vô điều kiện vào ngày 14- 8 -1945. Lực lượng quân đội phát
xít Nhật ở Đông Dương mất tinh thần, hoang mang, rệu rã, các chính quyền tay
sai của Nhật ở Việt Nam và ở Lào hoàn toàn bị tê liệt tạo cơ hội ngàn năm có
một cho nhân dân Đông Dương vùng lên giành độc lập.
Ở Việt
Nam, cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra sôi động và kết thúc thắng lợi. Ngày 2 tháng
9 năm 1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập trịnh trọng tuyên bố với nhân dân
cả nước và thế giới khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chỉ 02 ngày sau
đó, ngày 4 tháng 9 năm 1945, chủ tịch Hồ chí Minh đã mời Hoàng thân Souphanouvong
(một người của hoàng gia Lào) lúc này đang là một kỹ sư cầu đường làm việc cho
người Pháp đang ở Vinh (VN) ra Hà Nội cộng tác với người, đã đặt những viên
gạch đầu tiên xây dựng mối quan hệ Việt – Lào.
Cùng
thời gian đó, nhân dân Lào đã tiến hành giành chính quyền ở một số thành phố,
thị xã, như: Viêng Chăn, Thà Khẹc, Xa-vẳn-na-khệt, Sầm Nưa, Luông Pha Băng.
Tháng 9-1945, tổ chức Lào Ít-xa-la và Việt kiều yêu nước nhất trí thành lập Liên
quân Lào - Việt đặt dưới sự chỉ huy của một Bộ Tham mưu chung do Quản Xỉng và
Vũ Hữu Bỉnh đứng đầu, các Ủy ban phòng thủ Lào - Việt cũng được tổ chức ở các
địa phương. Đây là cơ sở quan trọng đầu tiên, thuận lợi cho việc Quân tình
nguyện Việt Nam sang giúp đỡ nhân dân Lào sau này trong cuộc chiến đấu bảo vệ
nền độc lập.
Ông Đinh Xuân Long chụp hình lưu niệm với một vị tướng trong một buổi họp mặt của các cựu chiến binh tỉnh TT - Huế.
Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời Ai Lao (tức Xứ uỷ lâm thời Ai Lao) được thành lập vào tháng 9 năm 1934; đã lãnh đạo một cách tích cực công cuộc đấu tranh chống cuộc xâm lược và chiếm đóng đất nước Lào của thực dân Pháp cho các bộ tộc Lào; tuy
nhiên tình hình ở Lào diễn biến rất phức tạp. Các lực lượng cách mạng yêu nước
chủ yếu mới được xây dựng và phát triển ở một số thành phố, thị trấn dọc sông
Mê Kông. Mặt khác, trong chính giới Lào cũng còn nhiều khuynh hướng khác nhau
về con đường giành độc lập cho đất nước Lào. Trong khi đó, thực dân Pháp núp
dưới danh nghĩa Đồng minh, đã cho người liên lạc với Hoàng thân Phếtxarạt để
thương lượng cho thực dân Pháp được tiến vào Viêng
Chăn.
Sáng
ngày 12 tháng 10 năm 1945, trong cuộc mít tinh lớn tại sân vận động thành phố
Viêng Chăn, Chính phủ Lào Ítxalạ vừa được thành lập đã làm lễ ra mắt và trịnh
trọng tuyên bố trước toàn thể nhân dân nền độc lập của quốc gia Lào. Thủ tướng
Khăm Mạo tuyên bố với Việt kiều: “mong rằng ba nước Việt, Miên, Lào bắt tay
nhau để kiến thiết quốc gia”(3).
Trước
tình hình đó, ngày 25-11-1945, ĐCS Đông Dương ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến
quốc”, chủ trương thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào, thành lập Bộ Tư
lệnh Lào - Miên. Ban Thường vụ Trung ương ĐCS Đông Dương chỉ thị cho Xứ ủy Lào
đẩy mạnh võ trang, tuyên truyền, vận động quần chúng, phát triển chiến tranh du
kích, “đặng bao vây lại quân Pháp ở những nơi sào huyệt của chúng và quét sạch
chúng khỏi đất Lào”.
Ngày 23
tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm thành phố Sài Gòn. Tiếp đó,
chúng mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ, Nam Trung Bộ của Việt Nam, sang
Campuchia, Hạ Lào, rồi toàn cõi Đông Dương.
Trước
nguy cơ tồn vong nền độc lập dân tộc của ba nước Việt Nam – Lào - Campuchia,
ngày 25-11-1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị
Kháng chiến kiến quốc để chỉ đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc của ba nước Đông
Dương.
Trước sức
tiến công ồ ạt của quân Pháp, đại diện Chính phủ hai nước Việt Nam, Lào đã
thống nhất chủ trương vừa chiến đấu tiêu hao sinh lực địch, ngăn cản bước tiến
của chúng, vừa chủ động tổ chức cho nhân dân Lào và Việt kiều di tản ra khỏi
thành phố.
Trong những năm
1945-1946, do tương quan lực lượng vũ trang chênh lệch, cuộc chiến đấu bảo vệ
chính quyền của nhân dân Lào cuối năm 1945 gặp nhiều khó khăn, tổn thất. Để bảo
toàn lực lượng, đầu tháng 4 -1946 một bộ phận các cơ quan của Chính phủ độc lập
lâm thời Ítxalạ và Hoàng thân Xuphanuvông đã phải tạm thời sơ tán
sang Thái Lan, một số bộ phận khác của Chính phủ lâm thời Lào Ítxalạ được
chuyển lên Luổng Pha bang, đồng thời các lực lượng vũ trang cách mạng Lào và
Việt kiều chuyển hướng về vùng nông thôn, rừng núi hoạt động, chuẩn bị kháng
chiến lâu dài.
Đáp ứng
yêu cầu của cách mạng Lào, Bộ Tư lệnh Chiến khu 4 (Việt Nam) đã cử một số cán
bộ và đơn vị sang phối hợp, hỗ trợ các địa phương ở Đông Lào xây dựng cơ sở
kháng chiến
Thực hiện
chủ trương trên, trong năm 1948, lãnh đạo hai nước Việt Nam, Lào đã thống nhất
quyết tâm và tiến tới thành lập Mặt trận Tây Bắc Lào (4) nhằm xúc tiến việc xây
dựng căn cứ địa Tây Bắc Lào, nối liền với khu Tây Bắc của Việt Nam; thành lập
Ban xung phong Lào Bắc (5), thành lập Đoàn võ trang công tác miền Tây, làm
nhiệm vụ giúp cách mạng Lào ở khu vực phía nam tỉnh Hủa Phăn và phía bắc tỉnh
Xiêng Khoảng và thành lập Khu Đặc biệt ở Quảng Nam (Việt Nam) để làm chỗ dựa
xây dựng căn cứ ở Hạ Lào.
Vào đầu
năm 1949, căn cứ vào sự phát triển của cách mạng ba nước Đông Dương, Hội nghị
cán bộ lần thứ sáu Trung ương Đảng (1.1949), quyết định “mở rộng mặt trận Lào -
Miên”, trong đó nhấn mạnh yêu cầu mở rộng Mặt trận Kháng chiến Lào và
Campuchia, củng cố các lực lượng Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở hai nước này,
tăng cường thêm cán bộ, xây dựng và mở rộng các căn cứ ở Lào...
Thực hiện
chủ trương của Trung ương Đảng về Mặt trận Lào – Miên, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội
nhân dân Việt Nam xác định nhiệm vụ hỗ trợ hai nước Lào, Campuchia giải phóng
khỏi ách thực dân Pháp theo phương châm: vận động nhân dân và để cán bộ Lào, Campuchia
tự đảm trách công việc; cán bộ Việt Nam chỉ làm cố vấn; thành lập quân giải
phóng Lào. Theo tinh thần đó, Việt Nam đã cử nhiều cán bộ phối hợp với lực
lượng kháng chiến Lào mở lớp huấn luyện quân sự và học tập chính trị. Ngày
20-1-1949, tại căn cứ Lao Hùng, huyện Xiêng Kho, tỉnh Hủa Phăn, nơi đơn vị
Látxavông do đồng chí Cayxỏn Phômvihản chỉ huy đã chính thức tuyên bố thành lập
Quân đội Lào Ítxala (hayPathet Lào).
Tuy
nhiên, vì "cơ sở đảng ở Lào, Miên gần như chưa có gì trong khi phong trào
giải phóng Lào, Miên đang lên cao"(6), cho nên cần "phải tìm tòi thu
hút những phần tử hăng hái trong hai dân tộc Miên, Lào... và đào tạo họ thành
những cán bộ cốt cán cho công tác vận động Lào, Miên. Gây cho được cơ sở Đảng
trong dân chúng Miên, Lào. Phải chú trọng nhất các đoàn thể cấp tiến, các phần
tử thanh niên trí thức và bộ đội Lào độc lập" (7), để phối hợp với các đơn
vị quân tình nguyện Việt Nam lần lượt được cử sang hoạt động ở Lào.
Trước
tình hình mới, ngày 30 tháng 10 năm 1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương quyết định các lực lượng quân sự của Việt Nam được cử làm nhiệm
vụ quốc tế tại Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình
nguyện. Quan hệ chiến đấu giữa Quân đội Việt Nam và Quân đội Lào Ítxalạ được
quy định rõ theo nguyên tắc: Chỉ huy và tác chiến thì Việt Nam làm chỉ huy
trưởng. Vũ trang tuyên truyền thì làm chung, phối hợp chỉ huy.
Thực
hiện nhiệm vụ quốc tế, cán bộ và quân tình nguyện Việt Nam đã giúp đỡ nhân dân
Lào xây dựng cơ sở chính trị và vũ trang quần chúng, phát động chiến tranh du
kích rộng khắp. Thực hiện chủ trương đẩy mạnh chi viện quân sự cho các chiến
trường Lào, riêng năm 1951, lực lượng cán bộ và bộ đội Việt Nam chi viện cho
chiến trường Lào tăng lên đến 12.000 người.
Về phía người
Pháp, tình hình tại Đông Dương biến chuyển nhanh chóng, quân đội
Pháp liên tục thất bại. Để tập trung binh lực bình định
Việt Nam thực dân Pháp quyết định trao trả độc lập cho Lào. Năm
1950, Pháp trao cho Lào quyền bán tự trị với vị thế một "nhà nước liên
kết" trong Liên hiệp Pháp .
Tuy nhiên người Pháp vẫn duy trì quyền kiểm soát thực tế cho đến ngày 22 tháng
10 năm 1953, mới trao quyền độc lập hoàn toàn cho người Lào với chính thể quân
chủ lập hiến – Vương quốc Lào thống nhất chính
thức ra đời.
Ngày
25/12/1949, Chính phủ Lào lưu vong ở Thái Lan tự giải tán... Đại hội Quốc dân
Lào (Mặt trận Lào kháng chiến) họp 13 - 15/8/1950 (tại Tuyên Quang – Việt Nam),
quyết định thành lập Chính phủ Kháng chiến Lào, lập Mặt trận dân tộc thống nhất
Lào, tức Neo Lào Ítxalạ. Đại hội đã bầu Hoàng thân Xuphanuvông làm Chủ tịch
kiêm Thủ tướng Chính phủ Kháng chiến Lào. Đại hội đã đề ra Cương lĩnh của Mặt
trận gồm 12 điều; trong đó nhấn mạnh yêu cầu tăng cường đoàn kết quốc tế, trước
hết là với Việt Nam và Campuchia, cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung là thực dân
Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, góp phần bảo vệ hòa bình khu vực và thế giới.(1)
Chấp
hành Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng, các đồng chí Lào là đảng viên Đảng
Cộng sản Đông Dương đã tổ chức thành “Nhóm Nhân dân Lào” làm nòng cốt lãnh đạo
phong trào và chuẩn bị cho việc thành lập đảng chính trị của Lào.
Ngày
8-5-1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh Đông Dương khai mạc tại
Giơnevơ. Hội nghị có chín bên tham dự, gồm Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh,
Pháp, Việt Nam dân chủ cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào, Vương quốc
Campuchia. Các đại diện lực lượng kháng chiến Pathết Lào và Khơme Ítxarắc có
mặt tại Giơnevơ nhưng không được mời tham gia hội nghị, vì đại biểu Pháp, Mỹ
phản đối. Do đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đại diện cho lập trường, tiếng
nói của Chính phủ Kháng chiến Lào và Campuchia.
Hội
nghị Giơ ne vơ công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Vương quốc Lào. Lực lượng Pathết Lào được công nhận là lực lượng chính trị độc
lập, hợp pháp, có quân đội, có vùng tập kết ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ;
các nhà chức trách hai phái (Pathết Lào và Chính phủ Vương quốc Lào) sẽ cùng
nhau thương lượng để giải quyết vấn đề chính trị trên cơ sở bảo đảm quyền tự
do, dân chủ của nhân dân, thành lập chính quyền liên hiệp, hòa hợp dân tộc
thông qua tổng tuyển cử tự do.
Người cựu chiến binh với 05 cô con gái ruột của mình
NGƯỜI LÍNH TÌNH NGUYỆN – CHIẾN SĨ TÌNH BÁO
TRONG ĐỘI QUÂN TÌNH NGUYỆN VIỆT – LÀO :
Thượng tá tình báo quân đội Đinh Xuân Long vốn xuất thân trong một gia đình nhà
Nho thuộc tộc họ “Đinh Như” tại làng Đồng Di, xã Phú Hồ, huyện Phú Vang
tỉnh Thừa Thiên – Huế. Người cha của ông thuộc hàng thế hệ những người cộng sản
đầu tiên tại khu vực Trị - Thiên – Huế. Trước năm 1945 cụ là
một trong số ít những đảng viên cộng sản thuộc Đông Dương cộng sản đảng người
Việt được cử sang xây dựng phong trào cộng sản tại phần lãnh thổ nước Lào thuộc
Pháp lúc ấy. Cụ đã đem theo gia đình mình sang nước Lào sinh sống.
Sau khi
chính phủ lâm thời Lào (Lào Ítxalạ) được thành lập
vào ngày 12 tháng 10 năm 1945, đồng chí này đã được phân công làm đại đội
trưởng trong đội quân bảo vệ chính phủ lâm thời Lào.
Năm 1946
sau khi người Pháp đem quân vào tái chiếm nước Lào; khi chỉ mới 15 tuổi rưỡi
ông Đinh Xuân Long đã tham gia đội quân tình nguyện Việt – Lào bảo vệ chính phủ
lâm thời Lào. Trước sức tấn công ồ ạt của quân Pháp, do có sự chênh lệch quá
lớn về khí tài quân sự và lực lượng trực tiếp tham gia chiến đấu nên mặt trận
Lào bị vỡ. Thực dân Pháp đã ra sức khủng bố, tìm diệt các tổ chức và thành phần
người Việt đã tham gia trong chính phủ và quân đội lâm thời (Lào Ítxalạ).
Đã khiến cho hơn 10 vạn người Việt đang sống ở Lào phải di tản sang Thái Lan;
để tránh sự trả thù của người Pháp và quân đội Hoàng gia Lào. Đại bộ phận quân
tình nguyện Việt – Lào cũng phải di tản sang đất Thái (thuộc bờ Tây sông Mê
Kông), nhằm tránh bị máy bay Pháp ném bom và sự càn quét của quân đội hoàng gia
Lào.
Gia đình
ông Đinh Xuân Long đã phải di tản sang đất Thái trong thời gian này. Sau khi
sang đất Thái, để tránh sự kiểm soát và bắt bớ của chính quyền vương quốc Xiêm
La (Thái Lan ngày nay), ngày 25/12/1949, Chính phủ Lào lưu vong ở Thái Lan đã tự
giải tán... . Đội quân tình nguyện Việt – Lào tại Thái đã
được lệnh rút vào hoạt động bí mật.
Sau khi buộc phải di tản sang đất Thái (1946) hoạt động, ông
Đinh Xuân Long (năm 1947) được cấp
trên điều
sang bộ phận tình báo chính trị, hoạt động trong bộ phận người Việt đang sinh sống hợp
pháp trên
khu vực Đông Bắc của nước Thái và vùng Trung Lào.
Từ
sau năm 1946, sau những thất bại liên tiếp của chính phủ và quân đội lâm thời
Lào (Lào Ítxalạ), trước sự tấn công của quân đội Pháp.
Trước nguy cơ chính phủ lâm thời Lào sẽ tan rã, Bộ chính trị hai nước Việt –
Lào quyết định thành lập đội quân tình nguyện Việt – Lào nhằm trợ giúp cho
chính phủ này hoạt động trở lại (Chính phủ Kháng chiến Lào mới
do Hoàng
thân Xuphanuvông Thủ tướng – tuyên bố thành lập
ngày 13
- 15/8/1950 tại tỉnh Tuyên Quang – Việt
Nam).
Năm 1950 ông Đinh Xuân Long được điều sang công tác trong đội quân tình
nguyện Việt – Lào, giữ cương vị là trung đội phó trinh sát tại một trung đội
trinh sát thuộc trung đoàn 120. Lúc này ông đồng thời kiêm nhiệm thêm những
phân công của cấp trên trong lĩnh vực tình báo quân sự, hoạt động chủ yếu cũng
tại khu vực Trung Lào và vùng Đông Bắc Thái Lan.
Ngày
8-5-1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh Đông Dương khai mạc tại
Giơnevơ. Các đại diện của lực lượng kháng chiến Pathết Lào và Khơme Ítxarắc đã
không được mời tham gia hội nghị, vì đại biểu Pháp, Mỹ phản đối. Đại diện chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Giơnevơ phải đứng ra làm đại diện cho lập
trường, tiếng nói của Chính phủ Kháng chiến Lào và Campuchia.
Hội
nghị Giơ ne vơ công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Vương quốc Lào. Chính phủ Kháng chiến Lào (tức lực lượng Pathết Lào) không được
công nhận là chính phủ hợp pháp mà chỉ được công nhận là một phái chính trị đối
lập trong vương quốc Lào độc lập đã thành lập trước đó (ngày
22 tháng 10 năm 1953). Lực lượng đối lập này (tức Pathết Lào) có quân đội
riêng, có vùng tập kết ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ. Hội nghị yêu cầu các
nhà chức trách hai phái (Pathết Lào và Chính phủ Vương quốc Lào) sẽ cùng nhau
thương lượng để giải quyết vấn đề chính trị trên cơ sở bảo đảm quyền tự do, dân
chủ của nhân dân, thành lập chính quyền liên hiệp, hòa hợp dân tộc thông qua tổng
tuyển cử tự do.
Sau hiệp
định Giơnenơ (8-5-1954), ông Đinh Xuân Long được giao nhiệm vụ quay trở lại
hoạt động tại Thái Lan và được điều sang bộ phận tình báo chính trị, hoạt động
trong bộ phận người Việt đang sinh sống hợp pháp trên khu vực Đông Bắc của nước
Thái và vùng Trung Lào. Ông được một cán bộ cao cấp của trung ương đang phụ
trách những hoạt động của Đảng và quân đội tại khu vực Trung Lào tên là Võ
Chương Hiến trực tiếp giao cho nhiệm vụ này. Những hoạt động của ông lúc này là
thực hiện những chỉ thị của cấp trên nhằm phục vụ cho những tính toán
chiến lược của Đảng trên chiến trường Lào.
Sau khi
được giao nhiệm vụ quay trở lại hoạt động trong cộng đồng người Việt tại Thái
Lan trong vai trò là một giáo viên dạy văn hóa trong cộng đồng người Việt. Ngoài
trách nhiệm của một cán bộ tình bào chiến lược của quân đội và nhà nước đang
hoạt động tại nước ngoài. Ông còn tham gia các hoạt động trong phong trào yêu
nước của cộng đồng người Việt, kêu gọi sự ủng hộ trong cộng đồng người Việt (và
cả người Thái) về cuộc kháng chiến chống Mỹ đang hồi cao trào ở trong nước.
Hoạt
động thứ hai là thông qua những hoạt động kinh doanh hợp pháp của
các cá nhân và tổ chức trong cộng đồng người Việt đang sinh sống trên
lãnh thổ nước Thái Lan nhằm tìm kiếm nguồn tài chính để cung cấp cho những hoạt
động của Đảng trên chiến trường Lào và một phần nào đó để chuyển về trong nước
phục vụ cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Tuy
nhiên tới cuối năm 1959, một số bộ phận trong hệ thống tình báo nơi ông đang
hoạt động tại Thái Lan bị địch phát hiện; khiến cho ông bị lộ. Nhằm tránh sự
truy bắt của nhà cầm quyền Thái Lan ông đã được lệnh trở về nước. Vào một buổi
chiều tháng 01 năm 1960, khi con tàu cập cảng Hải Phòng ông đã được đích thân
Hồ Chủ tịch ra đón tại bến cảng và đưa về Hà Nội.
Sau
một thời gian ngắn nghĩ ngơi, vì lý do sức khỏe ông xin ra khỏi quân đội với
quân hàm Thượng tá. Sau khi được cấp trên đồng ý ông đã xin vào công tác tại
ngành Nội thương. Ông được Bộ Nội Thương phân công về công tác tại Ty Thương
Mại tỉnh Hải Dương. Tới năm 1966 trước nhu cầu cần có cán bộ ngành Nội Thương
có kinh nghiệm tăng cường cho miền núi; ông được bộ Nội Thương điều lên công
tác tại Ty Nội Thương tỉnh Hà giang.
Tuy nhiên lúc này cuộc kháng chiến chống Mỹ của ta đang vào giai đoạn khó khăn
nhất; các nước XHCN anh em ở Đông Âu và Trung Quốc bắt đầu viện trợ cho ta một
khối lượng khá lớn hàng hóa và khí tài quân sự. Chính phủ cần có những cán
bộ có kinh nghiệm trong ngành Nội Thương để tiếp nhận và phân phối khối
lượng hàng hóa khổng lồ này phục vụ cho công cuộc giải phóng miền Nam. Và ông
đã được Bộ Nội Thương điều sang công tác trong lĩnh vực này, trong thời gian từ
năm 1967-1970; vẫn thuộc biên chế của bộ Nội Thương !
Qua
phỏng vấn trực tiếp, ông cho biết sau khi về nước, tuy không còn công tác trong
quân đội và đã được điều sang công tác tại ngành Nội thương nhưng ông vẫn hoạt
động trong ngành tình báo chính trị.
Sau
chiến thắng mùa xuân năm 1975, vào đầu năm 1976 ông được bộ Nội Thương điều vào
phía Nam làm Phó Ban Cải Tạo Công thương nghiệp tư bản tư doanh thành phố Sài
gòn – Gia Định. Khi nhận được quyết định điều động vào Nam ông đã đề đạt nguyện
vọng với cấp trên xin về công tác tại quê hương xứ Huế của ông với ý muốn được
đóng góp một phần công sức của mình xây dựng quê hương.
Vì ông
theo chân người cha suốt một đời chinh chiến sang sống tại đất Lào và Thái khi
chỉ mới là một chú bé; xa quê hương đã quá lâu nay đất nước đã hòa bình thống
nhất thì nguyện vọng này của ông cấp trên đã nhận thấy. Lãnh đạo bộ Nội Thương
đã đồng ý đáp ứng nguyện vọng của ông nhưng yêu cầu ông chờ 04 tháng mới trả
lời vì họ đang tìm người thay. Nhưng chỉ mới hơn 01 tháng sau (tháng 2 năm
1976) họ đã trả lời và đồng ý phân công ông về công tác tại Ty Thương Nghiệp
tỉnh Thừa Thiên (sau đó là Bình Trị Thiên). Ông về công tác và sinh sống tại
Huế từ tháng 2 năm 1976 cho tới nay.
Sau khi về Huế công tác ông được phân công đảm nhận nhiều vị trí quan trọng trong ngành Nội thương của tỉnh Thừa Thiên, sau đó là tỉnh Bình Trị Thiên; mọi sự phân công của cấp trên ông đều hoàn thành tốt đẹp và được ghi nhận bằng nhiều huân, huy chương và bằng khen của ngành nội thương và của chính quyền địa phương tặng cho ông. Vị trí công tác cuối cùng ông đảm nhận trước khi nghĩ hưu là Giám đốc Công ty thương mại Việt - Lào.
Một vị giám đốc thành công trong sự nghiệp
Sau khi về Huế công tác ông được phân công đảm nhận nhiều vị trí quan trọng trong ngành Nội thương của tỉnh Thừa Thiên, sau đó là tỉnh Bình Trị Thiên; mọi sự phân công của cấp trên ông đều hoàn thành tốt đẹp và được ghi nhận bằng nhiều huân, huy chương và bằng khen của ngành nội thương và của chính quyền địa phương tặng cho ông. Vị trí công tác cuối cùng ông đảm nhận trước khi nghĩ hưu là Giám đốc Công ty thương mại Việt - Lào.
Sau khi
nghĩ hưu, ông cũng đã tích cực tham gia công tác xã hội, ông nguyên là
phó chi hội Hữu Nghị Việt Nam - Thái Lan tỉnh TT – Huế, phó Chủ
tịch Hiệp hội du lịch tỉnh TT – Huế, phó Chủ tịch thường trực Hội doanh nhân –
chủ trang trại cựu chiến binh tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Đại gia đình của ông hiện nay
CHÂN DUNG MỘT NGƯỜI CHA
Hiện
nay tại Huế, khi đến thăm viếng bất cứ một ngôi Từ
đường của một tộc họ nào đấy; nếu có một chút kiến thức về văn
hóa Hán – Nôm chúng ta sẽ gặp những lời răn dạy của các bậc
tiền nhân về nền nếp gia phong, về những tấm gương thành đạt của dòng họ, của
gia đình bằng những câu đối trên những bức hoành phi được treo một cách trang trọng
trong những ngôi Từ đường tại xứ Huế.
Trong
những lời hay ý đẹp đó chúng ta sẽ dễ dàng bắt gặp một cặp thành ngữ Hán – Nôm
khá thông dụng :
燕翼贻谋
鳳毛濟美
Phiên âm:
Yến dực di mưu
Phụng mao tế mỹ
Với
hai thành ngữ trên đây, thành ngữ thứ nhất chỉ đơn giản là miêu tả con chim én (yến) sè cánh
che chở cho con; thành ngữ thứ hai là miêu tả cái đẹp của con chim phụng.
Nhưng người xưa đã mượn hai hình tượng này để đề cao việc ông cha đã che chở, biết mưu tính công việc lâu dài cho con cháu (chim én). Và ca ngợi những bậc cha ông giỏi giang nên có được con cháu thành công (chim phụng).
Nhưng người xưa đã mượn hai hình tượng này để đề cao việc ông cha đã che chở, biết mưu tính công việc lâu dài cho con cháu (chim én). Và ca ngợi những bậc cha ông giỏi giang nên có được con cháu thành công (chim phụng).
Với hai câu thành ngữ này, tuy chỉ tám chữ nhưng khá thâm
thúy và không phải ai cũng hiểu được dụng ý sâu xa của tiền nhân khi đặt ra hai
thành ngữ này. Theo đó:
- 燕 翼 贻 谋 (Yến
dực di mưu) – được hiểu đầy đủ là “người ta mưu tính cho đời sau”.
Người xưa sử
dụng hình tượng con chim én (yến) nó sè cánh ra ấp con, hình ảnh tượng trưng cho việc
ông cha che chở, mưu tính công này việc nọ cho con cháu.
Thành ngữ này dựa theo một điển
tích có thật ngày xưa ở bên nước Trung Hoa, đó là việc Chu Vũ Vương bàn mưu
tính việc cho cháu để an lòng con của mình. Về sau thành ngữ này chỉ chung việc
các bậc cha ông vì con cháu đời sau mà an bài kế sách hay.
- 鳳 毛 濟 美 (Phụng mao tế mỹ) là một thành ngữ khá thông dụng vào thời nhà Nguyễn. Ám chỉ
việc người đời sau có khả năng tạo nên nghiệp tích tốt đẹp sánh người đời trước
rồi từ đó phát dương ngày càng xán lạn.
Thời trước
trong giới Nho học tại Thuận Hóa - Huế, cụm từ này được dùng nhiều để khen tặng
các bậc phụ huynh giỏi giang lương thiện có được con cháu ưu tú.
Đây mới
chính là chủ đề của bài viết này - đó là nhân cách của một người cha !
Người vợ tần tảo của ông, cũng là một cựu chiến binh quê ở TP. Đà Nẵng
Khi trao
đổi với nhân vật chính và xin phép được viết về ông, lúc đầu ông
không đồng ý và cho rằng những đóng góp của mình cho tổ quốc cũng bình thường
như hàng triệu đảng viên khác trên đất nước này; không có gì phải viết hay ngợi
ca cả. Ông mĩm cười phúc hậu, cho rằng “làm trai thời loạn thì ai cũng phải như thế” !
Nhưng
khi tôi nhắc tới những thành công của gia đình ông và của các con ông hiện nay.
Lý do tại sao họ có được thành công – vì ngoài phúc ấm của tổ tông; không thể
không có sự sắp đặt của người cha, người chủ gia đình tài giỏi, cộng với sự lao
động cực lực, họ đã nỗ lực phấn đấu học tập để có được thành công như ngày hôm
nay. Đây là một điển hình trong cuộc sống, trong lao động và trong học tập để
dẫn tới thành công, là một tấm gương sáng cần được nêu ra để mọi người học tập
và noi theo, thì ông đã đồng ý.
Tôi đã
mượn cặp thành ngữ nổi tiếng này của tiền nhân để nói về một người cha, về cái
gia đình khá đông đảo và khá đặt biệt của ông.
Như câu
thành ngữ trên có nói “ yến dực di mưu”, người cha này đã biết sắp đặt cho con
mình, đã khiến cho con cái của mình đều thành đạt. Tuy ông khá đông con, nhưng
họ đều thành công trong cuộc sống. Họ là những nhà khoa học, là các giáo sư -
tiến sĩ (Phó Viện trưởng), là những công chức, những doanh nhân thành đạt (gia
đình ông có tới 07 cái khách sạn lớn, nhiều nhà hàng cao cấp, nhiều cơ sở kinh
doanh và cửa hàng buôn bán lớn …tại thành phố Huế) tại xứ Huế.
Và câu
thành ngữ 鳳 毛 濟 美 (Phụng
mao tế mỹ) mà các bậc tiền nhân đã đặt ra nhằm ca ngợi những bậc cha ông giỏi
giang nên có được con cháu thành công (như những con chim phụng) – trong trường
hợp này thật là xứng đáng.
Người con gái lớn của ông, PGS. TS Đinh Thị Bích Lân - nguyên Phó viện trưởng Viện Công nghệ Sinh học Đại học Huế, chị hiện vẫn đang làm công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
MỘT CON NGƯỜI HẾT LÒNG VÌ TỘC HỌ
Sau khi
về nghỉ hưu, ông đã có những hoạt động khá tích cực vì tộc họ Đinh Như của mình.
Là một trong sốt ít vị trưởng lão của tộc họ còn lại có những hiểu biết cụ thể
về tộc họ, về thuần phong mỹ tục và quan hệ trong làng xã tại địa phương mình.
Tuy sống tại thành phố nhưng ông vẫn thường về làng tham gia tất cả các cuộc
lễ, hay hội họp của tộc họ Đinh Như tại làng Đồng Di đông, xã Phú Hồ, huyện Phú
Vang.
Ông Đinh Xuân Long trong buổi lễ ra mắt BLL họ Đinh miền Trung và Tây Nguyên năm 2012
Vào
những năm 2010, khi phong trào kết nối tộc họ được phát triển và nở rộ trong cả
nước. Những người họ Đinh VN cũng không thể đứng ngoài cuộc, sau khi Ban Liên
Lạc họ Đinh VN được thành lập (2012), chỉ mấy tháng sau ông đã cùng với người
em ruột – Đinh Như Lai đã khởi xướng phong trào kết nối các tộc họ Đinh tại
tỉnh TT – Huế, chuẩn bị thành lập BLL họ Đinh tỉnh TT – Huế. Hai ông đã tích
cực tìm kiếm kết nối những người mang họ Đinh đang sinh sống tại tỉnh TT – Huế
và những người họ Đinh gốc là người Huế đang sống trên cả nước, mời bà con
tham gia thành lập BLL họ Đinh tỉnh TT – Huế (tác giả bài viết này cũng chỉ
là người được mời !).
Sau một thời gian tích cực chuẩn bị khá chu đáo – chủ yếu là do
công sức của hai anh em ông Đinh Xuân Long – Đinh Như Lai. Ban Liên Lạc họ Đinh
tỉnh Thừa Thiên – Huế đã được thành lập trong một buổi lễ rất trang trọng vào
ngày 24/6/2012 ngay chính tại nhà thờ họ Đinh Như – làng Đồng Di đông, xã Phú
Hồ, huyện Phú Vang.
Ngay sau đó BLL họ Đinh tỉnh TT – Huế đã có cuộc họp toàn thể lần thứ nhất nhằm phân công nhiệm vụ cho các thành viên của BLL họ Đinh, thành lập các ban chuyên môn trực thuộc và triển khai các công việc trong thời gian tới. Tất cả các thành viên tham dự cuộc họp đã nhất trí bầu ông Đinh Xuân Long, thành viên tộc họ Đinh Như làm trưởng BLL họ Đinh tỉnh TT – Huế với nhiệm kỳ 5 năm (2012-2017); ông Đinh Như Lai làm phó Ban thường trực.
Thường trực BLL họ Đinh tỉnh TT - Huế.
Ngay sau đó BLL họ Đinh tỉnh TT – Huế đã có cuộc họp toàn thể lần thứ nhất nhằm phân công nhiệm vụ cho các thành viên của BLL họ Đinh, thành lập các ban chuyên môn trực thuộc và triển khai các công việc trong thời gian tới. Tất cả các thành viên tham dự cuộc họp đã nhất trí bầu ông Đinh Xuân Long, thành viên tộc họ Đinh Như làm trưởng BLL họ Đinh tỉnh TT – Huế với nhiệm kỳ 5 năm (2012-2017); ông Đinh Như Lai làm phó Ban thường trực.
Sau gần 05 năm
hoạt động BLL họ Đinh tỉnh TT – Huế đã có những hoạt động khá tốt và đã
tham gia hầu hết các hoạt động văn hóa xã hội và cuộc lễ của BLL họ Đinh VN,
BLL họ Đinh các tỉnh và các tộc họ khác trong khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
Ông Đinh Xuân Long tham dự một cuộc lễ của họ Đinh miền Trung tại Đà Nẵng năm 2015
Xin chân thành
cám ơn những đóng góp của tộc họ Đinh Như,
cá nhân ông Đinh Xuân Long và gia đình trong
phong trào kết nối và phát triển của họ Đinh tại tỉnh Thừa Thiên – Huế. Đây
cũng là một tấm gương sáng cho những tộc họ Đinh, những bậc phụ huynh khác học
tập và noi theo!
Đây là những
lời chân thành của một người viết báo, viết về một chiến sĩ cách mạng lão
thành, một người cha - một bậc trưởng thượng trong dòng Họ và là một người bà con họ Đinh của
mình./.
Ông Đinh Xuân Long với tác giả bài viết tại nhà riêng (tháng 9 năm 2017)
ĐKT
27.11.2017
*CHÚ THÍCH:
(1) Lịch sử quan hệ
đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam giai đoạn 1930 -2007, phần 1
(2). Một số tài liệu viết là
Đội tiền vệ (Conlảvăngnạ).
(3). Báo Cứu quốc - Cơ quan của Tổng bộ Việt Minh (Việt Nam), số 68, ngày 16-10-1945.
(4) Tây Bắc Lào - vùng phía tây của Bắc Lào - gồm tỉnh Huội Xài và phần phía Tây tỉnh Luổng Pha băng (sau tách thành tỉnh Xaynha Buly) Đây là vùng rừng núi điệp trùng, nằm sâu trong vùng địch kiểm soát, có biên giới giáp với Thái Lan, Miến Điện và Trung Quốc. Dân cư trong vùng phần lớn là các bộ tộc thiểu số như Lự, Cọ, Mu xơ, Lan Ten, Cùi, Nghiệu…sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, chăn nuôi, tự cấp, tự túc.
(5) Về ngày thành lập Ban xung phong Lào Bắc, các tài liệu viết về sự kiện này hiện không thống nhất. Theo đồng chí Huỳnh Đắc Hương viết trong bài Sau thắng lợi giải phóng dân tộc nhìn lại Sầm Nưa, Kỷ yếu hội thảo quốc tế : Căn cứ địa Sầm Nưa- biểu tượng đoàn kết đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Nxb Thế giới 2008, tr. 67, thì Ban xung phong Lào Bắc được thành lập ngày 24 tháng 8 năm 1948.
(3). Báo Cứu quốc - Cơ quan của Tổng bộ Việt Minh (Việt Nam), số 68, ngày 16-10-1945.
(4) Tây Bắc Lào - vùng phía tây của Bắc Lào - gồm tỉnh Huội Xài và phần phía Tây tỉnh Luổng Pha băng (sau tách thành tỉnh Xaynha Buly) Đây là vùng rừng núi điệp trùng, nằm sâu trong vùng địch kiểm soát, có biên giới giáp với Thái Lan, Miến Điện và Trung Quốc. Dân cư trong vùng phần lớn là các bộ tộc thiểu số như Lự, Cọ, Mu xơ, Lan Ten, Cùi, Nghiệu…sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, chăn nuôi, tự cấp, tự túc.
(5) Về ngày thành lập Ban xung phong Lào Bắc, các tài liệu viết về sự kiện này hiện không thống nhất. Theo đồng chí Huỳnh Đắc Hương viết trong bài Sau thắng lợi giải phóng dân tộc nhìn lại Sầm Nưa, Kỷ yếu hội thảo quốc tế : Căn cứ địa Sầm Nưa- biểu tượng đoàn kết đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Nxb Thế giới 2008, tr. 67, thì Ban xung phong Lào Bắc được thành lập ngày 24 tháng 8 năm 1948.
(6) ĐCSVN,
Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.10, tr.277.
(7) ĐCSVN, Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.9, tr.287.
------------------------------------------------------