Ngôi nhà bia với hai chữ THUNG HUYÊN
椿 -萱 , Thung – huyên.
Theo sách Chu Văn Công Gia Lễ (Trung Hoa) và nhiều sách từ điển phổ thông thì – Thung hay còn gọi là Xuân - là tên một loài cây thân gỗ khá lớn, gỗ rất tốt, gỗ của loại cây này thường dùng làm đàn. Cây có nguồn gốc từ Trung Hoa thân cao ba bốn trượng, mùa hè ra hoa trắng, lá non ăn được. Loại cây này có thể sống tới hàng ngàn năm. Theo sử sách Trung Hoa cho biết - Trang Tử 莊子 có nói đời xưa có cây xuân lớn, lấy tám nghìn năm làm một mùa xuân, tám nghìn năm làm một mùa thu. Cho nên người Hán (hay văn hóa Hán) thường lấy cây Thung (Xuân) ví như người Cha (phụ thân) như là cây cột chính trong một mái nhà (ở đây là trong gia đình). Và văn hóa Hán gọi người cha là "xuân đình" 椿庭 và cha mẹ là "xuân huyên" 椿萱 . Khi người cha sống lâu thì họ gọi là "xuân thọ" 椿壽 (tức trường thọ). Nhưng tục vẫn gọi người cha là “ cây thung” hay “thung”.
Một số sách của người Việt như Từ điển Thiều Chửu và Sách Thọ Mai Gia Lễ (của Hồ Sĩ Dương - thời Trần) cũng có nhắc tới điển tích này và cũng có cách giải thích tương tự:
“Ông Trang Tử nói đời xưa có cây xuân lớn, lấy tám nghìn năm làm một mùa xuân, tám nghìn năm là một mùa thu, vì thế người ta hay dùng chữ xuân để chúc thọ. Nay ta gọi cha là xuân đình 椿庭 cũng theo ý ấy. Tục đọc là chữ thung.”
2/. 萱 – Huyên :
Cũng theo sách Chu Văn Công Gia Lễ và từ điển phổ thông thì huyên là tên một loài cỏ - cỏ huyên; theo âm Hán - Việt thì
gọi là "vong ưu" 忘憂, hoặc là
"nghi nam" 宜男 (Hemerocallis flava), hoa lá đều ăn được cả. Theo sách Kinh Thi 詩經 cho biết : "Yên đắc huyên thảo, Ngôn thụ chi bối" 焉得萱草, 言樹之背 (Vệ phong 衛風, Hà quảng 河廣) – có nghĩa là : Sao
được cỏ huyên, Trồng ở sau nhà phía bắc. Mà khu nhà phía bắc là chỗ đàn bà ở,
vì thế gọi nơi mẹ ở là "huyên đường 萱堂."
Một số sách về chủ đề này của người Việt như Từ điển Thiều
Chửu, Thọ Mai Gia Lễ cũng đã trích dẫn lại câu chuyện này với cách giải thích cũng thống nhất như trên :
“Cỏ
huyên. Còn có tên là vong ưu 忘憂, lại gọi là nghi
nam 宜男 hoa lá đều
ăn được cả. Kinh Thi 詩經 có câu: Yên
đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối 焉得萱草,言樹之背 , có nghĩa
là : sao
được cỏ huyên, ở sau nhà phía bắc, tức là hoa này vậy. Nhà phía bắc là chỗ đàn
bà ở, vì thế gọi mẹ là huyên đường 萱堂.”
Một số từ điển
còn gọi cỏ huyên là huyên thảo, hoa hiên ; một loại cây (Hemerocallis Flava),
thuộc giống Bách hợp, mùa hạ nở hoa màu vàng, hoa và lá non dùng làm món rau
ăn, gọi là Kim châm 萱草 (Từ điển Nguyễn Quốc Hùng).
Như chúng ta
biết, thời quân chủ (hay còn gọi là Phong kiến) tại nước ta (từ năm 1945 trở về
trước); mọi luật lệ kỹ cương phép nước và phong tục tập quán tại nước ta đều dựa
theo văn hóa Hán. Từ lối sống theo Tam cương Ngũ thường và mọi
sinh hoạt của tầng lớp trên tức giới quý tộc - quan lại và giới Nho gia đều lấy
những giáo điều của Khổng giáo – Lão giáo làm hình mẫu. Lối sinh hoạt và văn
hóa Hán từ đó in đậm vào tiềm thức của người dân Việt. Ở một chừng mực nào đó
đã gây ra những hệ lụy không nhỏ trong đời sống văn hóa của người Việt khi ta
muốn thoát Trung. Nhưng chúng ta không thể không công nhận nền văn hóa Hán là một trong những
nền văn minh rực rỡ và đầu tiên của nhân loại. Chúng ta lên án giới cầm quyền
Trung Hoa với tham vọng ngông cuồng - nhưng văn hóa Hán thì chúng ta phải học
tập những tinh hoa của họ một cách có chọn lọc !
Trờ lại chủ đề cái thành ngữ Thung – Huyên: Khi văn hóa Hán du nhập vào nước ta theo gót chân của những kẻ chiếm đóng, với những hành vi cưỡng ép và đồng hóa khá bạo tàn. Nhưng thành quả nổi bật nhất mà người Việt đã thành công khi chống lại sự đồng hóa suốt gần 1000 năm Bắc Thuộc của người Hán – đó là ta đã giữ được tiếng nói của dân tộc mình. Nền văn hóa Hán đã không đồng hóa được người Việt, mà người Việt đã tiếp thu một cách có chọn lọc thậm chí biến tấu lại cho hợp với văn hóa xứ Đại Việt và thuần phong mỹ tục của dân tộc ta.
Cụ thể ở đây
với cái thành ngữ Thung – Huyên (椿 -萱); người
Việt đã không còn gọi nơi mẹ ở là huyên
đường 萱堂. Vì
người Việt ta phần đông là khá nghèo cha mẹ ở chung, không có dinh cơ phủ đệ, với năm thê bảy
thiếp, một người có một ngôi nhà riêng
trong phủ như tại xứ Tàu. Dân ta cũng chẳng ai còn thấy cây Thung (Xuân) nó như thế
nào cả !
Cho
nên theo sách Thọ Mai Gia Lễ của tác giả Hồ Sĩ Dương (thời Trần) - bản dịch năm 1932 của Viện Viễn Đông Bác Cổ (của người Pháp) cho biết - từ giai đoạn cuối thời Trần (tức cuối thế kỷ 14) trở về sau; cái thành ngữ 椿 -萱 (thung – huyên), chỉ
còn được dùng để chỉ nơi cha mẹ ở khi còn sống (nhà cha mẹ ở) và nơi mồ yên mả đẹp
khi cha mẹ đã mất (tức là lăng, mộ nơi chôn cất cha mẹ).
3/. Thành ngữ Thung - huyên 椿 -萱 , trong thơ ca Hán -
Nôm :
Trong
văn học cũng vẫn lưu truyền cái thành ngữ này khá nhiều, nhất là trong những
bài thơ chữ Hán, nhưng đặc biệt nhất là thơ Đường. Sau đây là một vài ví dụ:
遊子行
Du
tử hành
Huyên thảo sinh đường giai,
Du tử hành thiên nhai.
Từ thân ỷ môn vọng,
Bất kiến huyên thảo hoa.
Du tử hành thiên nhai.
Từ thân ỷ môn vọng,
Bất kiến huyên thảo hoa.
Bài ca người du tử
Cỏ huyên mọc
khắp thềm nhà
Con chơi tận chân trời xa
Mẹ già tựa cửa trông ngóng
Không xem cỏ huyên nở hoa
Con chơi tận chân trời xa
Mẹ già tựa cửa trông ngóng
Không xem cỏ huyên nở hoa
Hoặc:
Thù Mộng Đắc tỉ huyên thảo kiến tặng
Đỗ Khang năng tán muộn,
Huyên thảo giải vong ưu.
Tá vấn huyên phùng Đỗ,
Hà như Bạch kiến Lưu.
Lão suy thắng thiếu yểu,
Nhàn lạc tiếu mang sầu.
Thí vấn đồng niên nội,
Hà nhân đắc bạch đầu.
Huyên thảo giải vong ưu.
Tá vấn huyên phùng Đỗ,
Hà như Bạch kiến Lưu.
Lão suy thắng thiếu yểu,
Nhàn lạc tiếu mang sầu.
Thí vấn đồng niên nội,
Hà nhân đắc bạch đầu.
Đáp Mộng Đắc đã tặng thơ ví với cỏ
huyên
Rượu Đỗ Khang làm tan buồn bực
Hoa cỏ Huyên giải hết ưu phiền
Xin hỏi huyên khi tương phùng Đỗ
Có được như Bạch gặp Lưu quân
Tuy già yếu còn hơn chết trẻ
Nhàn mà vui cười cợt lo buồn
Thử hỏi xem những người cùng tuổi
Có mấy ai đầu bạc răng long
Hoa cỏ Huyên giải hết ưu phiền
Xin hỏi huyên khi tương phùng Đỗ
Có được như Bạch gặp Lưu quân
Tuy già yếu còn hơn chết trẻ
Nhàn mà vui cười cợt lo buồn
Thử hỏi xem những người cùng tuổi
Có mấy ai đầu bạc răng long
Một bản dịch
khác:
(Rượu
ngon xua được nỗi buồn
Cỏ thơm giải hết muộn phiền tâm tư
Gặp nhau cho thoả mong chờ
Quen nhau cho thoả mến ưa trong lòng
Ốm già hơn phải chết non
Khách nhàn cười kẻ khối buồn đeo chi
Đồng niên xin hỏi câu nầy
Đến nay tóc bạc như mây mấy người)
Cỏ thơm giải hết muộn phiền tâm tư
Gặp nhau cho thoả mong chờ
Quen nhau cho thoả mến ưa trong lòng
Ốm già hơn phải chết non
Khách nhàn cười kẻ khối buồn đeo chi
Đồng niên xin hỏi câu nầy
Đến nay tóc bạc như mây mấy người)
Thơ Bạch Cư dị
Hoặc:
Mộng Đắc tức Lưu Vũ Tích, thơ tặng Bạch Cư
Dị có câu:
唯君比萱草,相見可忘憂
"Duy quân tỉ Huyên thảo,
Tương kiến khả vong ưu"
Riêng anh
như nhánh cỏ Huyên, Gặp nhau quên hết ưu phiền.
Ngẫu thư
Kim triêu phong nhật hảo,
Đường tiền huyên thảo hoa.
Trì bôi vi mẫu thọ,
Sở hỉ vô huyên hoa.
Đường tiền huyên thảo hoa.
Trì bôi vi mẫu thọ,
Sở hỉ vô huyên hoa.
Chợt viết
Hôm nay ngày đẹp trời
Trước nhà hoa quên lo
Dâng ly chúc thọ mẹ
Vui vẻ chẳng nên lời
Hôm nay ngày đẹp trời
Trước nhà hoa quên lo
Dâng ly chúc thọ mẹ
Vui vẻ chẳng nên lời
椿萱並茂格
Xuân huyên tịnh mậu cách
Nhất đường lão đại hữu xuân huyên,
Ấm mãn môn đình chiếu kính viên.
Viễn cận nhi tôn giai đắc lộ,
Mạc sầu lai vãng lạc thâm uyên.
Ấm mãn môn đình chiếu kính viên.
Viễn cận nhi tôn giai đắc lộ,
Mạc sầu lai vãng lạc thâm uyên.
Dịch nghĩa:
Thế cây xuân huyên cùng tươi tốt
Thế cây xuân huyên cùng tươi tốt
Một
nhà già cả đủ xuân huyên
Gương sáng tròn trong bóng rợp hiên
Con cháu gần xa đều thành đạt
Chẳng lo sa ngã khỏi ưu phiền.
Gương sáng tròn trong bóng rợp hiên
Con cháu gần xa đều thành đạt
Chẳng lo sa ngã khỏi ưu phiền.
Ý bài thơ lấy từ bài Vịnh cảnh gia đình của Vũ
Huy Trác :
"Viễn cận nhi tôn vinh đắc
lộ, Đương tri phụ mẫu thiện vi tiên"
Con cháu xa gần vinh hiển được,
Phải do cha mẹ thiện làm đầu.
* Trong sách Bích Câu Kỳ Ngộ, câu
19 được học giả Hoàng Xuân Hãn đọc Nôm là “Phúc lành nhờ ấm thung huyên”.
Cụ chú thích “Thung huyên":
cha mẹ. Chính âm là Xuân-huyên. Chữ thung là cối giống chữ Xuân, nên có sự sai
ấy.
Nhưng cái sự sai ấy đã có từ xưa. Tự vị
Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651 cũng đã chép vậy.
4/. Thành ngữ Thung - huyên 椿 -萱 trong ca dao tục ngữ :
Trong truyện Kiều
ta vẫn thấy cái thành ngữ này được nhắc tới nhiều lần:
"Xuân huyên lo sợ xiết bao, Quá ra khi đến thế nào mà hay!"; hoặc :
“Thung huyên tuổi hạc đã cao.” “ở trên còn có nhà thung.
Lượng trên trông xuống biết lòng có thương”.
- Trong ca dao :
Em về thưa với thung huyên, Chốn này ta đã thành duyên nhau rồi."
Than rằng:
Mây che núi Hổ muôn dặm mơ màng . Gió thổi cành Thung một vùng nghi ngút
* Nhà nghiên cứu văn hóa Tạ Trọng Hiệp về sau còn bổ sung thêm các chứng cứ cho việc chữ XUÂN phải đọc là THUNG trong văn thơ Nôm như sau:
- Tống Trân số phận long đong
Lên ba bỗng bị nhà thung chầu trời.
(Tống Trân Cúc Hoa, 25,26)
- Tuyết sương trắng điểm cành thung
Phan phu nhân mới rướm dòng nước hoa
(Phan Trần, 35,36)
- Con giữ đạo tam tòng
Riêng còn một cội huyên thung
Muộn mằn chưa nảy chồi lan quế.
(chèo Quan Âm Thị Kính)
- Tủi thân sớm vắng nhà thung
Lấy ai dạy dỗ cậy trông sau này
(Thạch Sanh, 115,116)
- Chị nhờ em gánh hiếu trung
Chồi huyên gần cỗi gốc thung gần già
(Nhị Độ Mai, 973,974).
5/. Lời kết:
Biển học là vô bờ, tôi chỉ là một kẻ hậu sanh nhỏ bé, nhưng với bản tánh thích học hỏi về văn hóa cổ xưa của dân tộc trong đó có văn hóa Hán – Nôm. Sau một thời gian dài cố công học hỏi, nên cũng tiếp thu được chút ít kiến thức trong kho tàng văn học đồ sộ của tiền nhân đã để lại. Trước là để mở mang kiến thức nhằm bổ sung cho những bài viết, các công trình nghiên cứu của mình. Nhưng cuối cùng đó chính là để áp dụng trong cuộc sống; trong gia đình và trong dòng Họ của mình.
Bài viết này là để giải đáp thắc mắc của bà con tộc họ Đinh Khắc và người dân làng Kế Võ, khi bà con hỏi tại sao trong ngôi lăng mộ của “Cha” tôi, tại nghĩa trang làng Kế Võ - trên ngôi nhà bia có hai chữ THUNG – HUYÊN và trên đây là lời giải đáp ./.
ĐKT
11.06.2017
Toàn cảnh ngôi mộ - nơi yên nghỉ của cha tôi