Giai đoạn 1954-1975: Quốc tế đã công nhận hai nhà nước Việt Nam như thế nào ?

Bản đồ lãnh thổ 02 quốc gia trước năm 1975


Một trong những vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất giữa người Việt với nhau khi nói đến cuộc chiến Việt Nam trong giai đoạn từ 1954-1975 là về tính chính danh của hai nhà nước ở hai miền Nam-Bắc Việt Nam.

Hai điều khó có thể phủ nhận là: cả hai miền đều có sự ủng hộ riêng từ cộng đồng quốc tế, và kể từ 30/4/1975, Cộng hoà Miền Nam Việt Nam rồi tiếp đến là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thừa kế hàng loạt quyền và nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam Cộng hoà.

Hiệp định Geneva 1954 nhấn mạnh việc tạm thời chia đôi nước Việt Nam tại vĩ tuyến 17 không đồng nghĩa với việc thiết lập ranh giới lãnh thổ và chính trị giữa hai miền Nam-Bắc. Chính phủ ở cả hai miền đều thể hiện rất rõ ràng điều này tại các bản hiến pháp của họ trong giai đoạn 1954-1975.

Từ thời điểm bắt đầu đàm phán Hiệp định Geneva 1954 cho đến khi chiến tranh kết thúc, cả hai chính thể được thành lập trước đó tại mỗi miền đều cho rằng chỉ duy nhất một mình họ là đủ tính chính danh để quản lý cả đất nước. Cũng như, chỉ có họ là được quốc tế công nhận.

Thế nhưng định nghĩa “quốc tế” của mỗi miền cũng không giống nhau. Khi ấy, chính cộng đồng quốc tế cũng chia rẽ thành hai khối, chứ không riêng gì đất nước Việt Nam.

Tháng 1, 1950, cùng với Trung Quốc và Liên Xô, các quốc gia cộng sản Đông Âu đều công nhận tính chính danh của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) đối với lãnh thổ Việt Nam.

Cũng vào đầu năm 1950, Liên hiệp Pháp công nhận quyền tự trị và nền độc lập của Quốc gia Việt Nam (QGVN), tiền thân của Việt Nam Cộng hòa (VNCH), dựa trên một số hiệp ước được ký kết trước đó giữa hai nước vào năm 1949.
Đến tháng 2, 1950, Anh, Hoa Kỳ và một số nước Tây phương đều công nhận QGVN là thể chế lãnh đạo của nước Việt Nam.

Sau khi VNCH được thành lập vào năm 1955 và thay thế quyền lãnh đạo miền Nam của QGVN, Hoa Kỳ và các đồng minh Tây phương tiếp tục công nhận tính chính danh của VNCH. Đến năm 1966, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã thống kê là có 60 quốc gia trên thế giới công nhận chính thể VNCH của Nam Việt Nam.
Một số nước như Ấn Độ, Thuỵ Điển thì lại theo quy tắc không công nhận cả hai. Tuy nhiên, đến năm 1969, Thuỵ Điển trở thành nước Tây phương đầu tiên công nhận nhà nước VNDCCH của Bắc Việt Nam.

Việc công nhận thể chế nào tại Việt Nam mới thật sự đại diện cho cả đất nước vốn không hề ngã ngũ vào thời điểm Hiệp định Geneva 1954 được ký kết.

Ngược lại, cuộc giằng co này đã kéo dài đến hơn 20 năm sau.
Trong giai đoạn 1954-1975, ngoài sự công nhận của các nước trên thế giới bị chia rẽ theo hai cực cộng sản và tư bản trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, thì hai nhà nước Việt Nam còn được công nhận theo một số cách khác.

Gia nhập Liên Hiệp Quốc

Trước hết, VNCH đã từng xin tham gia vào LHQ từ đầu thập niên 1950. Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, VNDCCH cũng nộp đơn làm thành viên. Tuy nhiên, cả hai đều gặp phản đối từ thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an.

Chúng ta không cảm thấy khó hiểu khi biết được Liên Xô đã từng phản đối VNCH tham gia vào LHQ, và ngược lại thì Hoa Kỳ phản đối VNDCCH.
Cùng vì những sự phản đối này mà việc đăng ký làm thành viên LHQ của hai chính phủ Bắc-Nam Việt Nam đã khá lận đận trong vòng 20 năm.

Ngày 30/4/1975, chế độ VNCH bị thay thế bởi chính quyền của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CHMN), nhưng vẫn giữ vị thế một nhà nước độc lập đối với VNDCCH tại miền Bắc. Điều này được thể hiện rõ qua hai lá đơn xin tham gia LHQ riêng biệt của VNDCCH – Bắc Việt và CHMN – Nam Việt vào năm 1975.

Đến ngày 8/8/1975, Hội đồng Bảo an đã đồng thuận chấp nhận và đề cử với Đại Hội đồng LHQ cho cả hai quốc gia VNDCCH – Bắc Việt lẫn CHMN – Nam Việt được tham gia vào LHQ.

Việc Hội đồng Bảo an đưa ra đề cử với cả hai đơn xin tham gia LHQ của hai nhà nước Việt Nam vào tháng 8, 1975 càng làm rõ vấn đề là cả hai chính thể đều được đối xử như nhau và đều được LHQ công nhận.

Sau khi hai nhà nước VNDCCH và CHMN thống nhất và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời vào ngày 2/7/1976, thì Việt Nam mới trở thành một quốc gia với một chính phủ duy nhất. Sau đó, CHXHCN Việt Nam đã chính thức gia nhập LHQ vào tháng 9, 1977.

Tham gia với tư cách thành viên của các tổ chức Quốc tế

Có lẽ việc VNCH và VNDCCH đều tham gia làm thành viên của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) càng giúp chúng ta phân biệt được Việt Nam đã từng có hai chính phủ và được đối đãi như hai quốc gia riêng biệt.

Trước hết, đây là các tổ chức quốc tế mà thành viên tham gia hầu hết phải là các quốc gia có chủ quyền (sovereign states). Chúng ta có thể dùng Đài Loan làm ví dụ để so sánh vì Đài Loan chưa bao giờ là thành viên của WHO.

Thế nhưng, từ 17/5/1950, VNCH là thành viên của WHO, và là thành viên của WMO từ 1/4/1955.

Sau khi VNCH sụp đổ vào ngày 30/4/1975, VNDCCH mới xin gia nhập hai tổ chức này và trở thành thành viên của WMO ngày 7/8/1975, và của WHO vào ngày 22/10/1975. Điều này có nghĩa là tư cách thành viên của VNCH tại WHO và WMO lúc đó không bị xoá bỏ cho dù chính thể VNCH không còn tồn tại nữa.

Sau khi hai miền Nam Bắc đồng ý thống nhất và trở thành CHXHCN Việt Nam vào tháng 7, 1976, chính phủ mới đã gửi thông báo đến hai tổ chức này trong năm 1977 để yêu cầu cho phép CHXHCN Việt Nam tiếp nhận tư cách thành viên của cả hai chính phủ Nam-Bắc Việt Nam trước đó.

Điều này đồng nghĩa với việc trong thời gian trước năm 1977, đã có hai quốc gia Việt Nam là thành viên của WHO và WMO được các tổ chức quốc tế này công nhận.

Điểm này được nhấn mạnh bởi ngày tham gia vào WHO của Việt Nam hiện nay là ngày 17/5/1950. Đó là ngày mà VNCH tham gia vào WHO như đã nói ở trên, và có nghĩa là tư cách tham gia WHO với danh nghĩa một quốc gia của VNCH không hề bị ảnh hưởng bởi việc thống nhất đất nước vào năm 1976.

Ngoài ra, CHXHCN Việt Nam còn tiếp tục thay thế tư cách thành viên của VNCH với các tổ chức ILO, ITU, UPU, UNESCO, và IAEA. Đây là những tổ chức quốc tế mà trước năm 1975, chỉ có VNCH tham gia làm thành viên.

CHXHCN Việt Nam tiếp tục tư cách thành viên của VNCH đối với các định chế tài chính quốc tế

Trước tháng 4, 1975, chỉ có VNCH là thành viên của các định chế tài chính quốc tế. Đó là Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB).

Sau khi được thành lập vào tháng 7, 1976, CHXHCN Việt Nam đã trình thư xin thay thế (substitution) tư cách thành viên của VNCH tại các định chế tài chính nói trên, chứ không phải là đơn xin gia nhập làm thành viên mới.

Cụ thể là khi thay thế tư cách thành viên của VNCH với ADB, CHXHCN Việt Nam đã tiếp quản 3.000 cổ phần của chính phủ VNCH tại ngân hàng này.
Đồng thời, CHXHCN Việt Nam cũng tiếp tục được nhận tất cả các khoản vay mà VNCH đã được ADB chấp thuận cho vay trong những năm trước đó. CHXHCN Việt Nam cũng bảo đảm sẽ chịu trách nhiệm chi trả cho những khoản vay này.

Vì vậy, ngày gia nhập ADB của Việt Nam hiện nay là ngày 22/9/1966, là ngày mà Quốc hội của chính phủ VNCH tại miền Nam đã phê chuẩn việc tham gia ADB.

CHXHCN Việt Nam tiếp tục công nhận một số hiệp ước mà VNCH đã ký kết 

Tương tự như việc tiếp tục tư cách thành viên của VNCH tại một số tổ chức và định chế tài chính quốc tế như đã nêu, CHXHCN Việt Nam còn tiếp tục công nhận ít nhất hai hiệp ước quốc tế mà VNCH đã ký kết trước ngày 30/4/1975.

Ngày 16/12/1976, nhà nước CHXHCN Việt Nam đã đệ trình đơn phê chuẩn Công ước Viễn thông Quốc tế 1973 (1973 International Telecommunication Convention) mà chính phủ VNCH đã ký kết vào ngày 25/10/1974 tại Hội nghị Málaga-Torremolinos nhưng chưa kịp phê chuẩn. Đơn đệ trình của CHXHCN Việt Nam nêu rõ là việc phê chuẩn được dựa trên những ký kết mà VNCH đã thực hiện trước đó.

Tương tự, VNCH được công nhận tư cách thành viên của Liên minh Bưu chính Quốc tế (UPU) từ năm 1951. Vào tháng 7/1974, chính phủ VNCH đã ký kết các văn bản liên quan đến Các Quy chế chung (General Regulations) và Công ước Liên minh Bưu chính Lausanne (Universal Postal Convention) của UPU nhưng chưa kịp phê chuẩn. Ngày 27/10/1976, Quốc hội của CHXHCN Việt Nam đã phê chuẩn các văn bản này và đệ trình lên tổ chức UPU với yêu cầu được thừa kế (succession) tư cách của VNCH.

Ngoài ra, vào ngày 4/7/1976, chỉ 2 ngày sau khi được thành lập, Bộ Ngoại giao của nhà nước CHXHCN Việt Nam đã gửi công hàm đến chính phủ Thụy Sỹ và tuyên bố khẳng định tiếp tục tham gia vào các hiệp ước của Công ước Geneva 1949 (Geneva Conventions of 1949) mà hai chính phủ VNDCCH  VNCH đã ký kết trước đó về các vấn đề bảo vệ nạn nhân chiến tranh.

Lời kết

Qua những ví dụ kể trên chúng ta nhận thấy rằng, bằng nhiều hành động khác nhau, cả hai chính phủ VNCH và VNDCCH đã khẳng định tư cách quốc gia của mình trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam từ năm 1954-1975.

Tuy nhà nước Việt Nam hiện nay chưa bao giờ chính thức công nhận chính thể VNCH nhưng CHXHCN Việt Nam lại liên tục công nhận tư cách quốc gia của VNCH một cách gián tiếp, qua việc thừa kế hoặc tiếp nhận tư cách thành viên của VNCH tại các tổ chức và định chế tài chính quốc tế.

Ngày nay, có lẽ đối với nhiều người Việt Nam, đặc biệt là những thế hệ sinh ra và lớn lên sau năm 1975, tư cách quốc gia của VNDCCH tại miền Bắc Việt Nam là việc không còn phải tranh cãi.

Còn về chính thể QGVN – VNCH tại miền Nam, chúng ta có thể đọc lại những gì mà Đại Hội đồng LHQ đã phát biểu khi đề cử QGVN tham gia LHQ trong phiên họp năm 1952. Từ đó, chúng ta có thể phần nào hiểu thêm được một quan điểm khác về sự tồn tại và tính chính danh của chính thể QGVN – VNCH:
“Quan điểm của Đại Hội đồng cho rằng (Quốc gia) Việt Nam là một nhà nước yêu chuộng hòa bình đúng như định nghĩa của Điều 4 Hiến chương, đã thể hiện nguyện ý cũng như có khả năng thực hiện các nghĩa vụ của Hiến chương, và do đó nên được chấp thuận tham gia làm thành viên của Liên Hiệp Quốc.”

Tác giả: QUỲNH VI
Nguồn:  http://luatkhoa.info/2017/04/1954-1975-


Tài liệu tham khảo:



Xâm lược hay Giải phóng: Từ góc nhìn công pháp quốc tế !

Ảnh: Uỷ ban Quân quản Sài Gòn – Gia Định tổ chức họp báo quốc tế ngày 8/5/1975. 
Nguồn: Herve GLOAGUEN/Gamma-Rapho via Getty Images.


Một cách khách quan, để nhận định một cuộc chiến diễn ra dưới cơ chế là một cuộc xung đột nội địa hay quốc tế, trước tiên phải xác định được danh nghĩa pháp lý của các bên tham gia, mà cụ thể hơn, họ có được xem là quốc gia (“state”) theo quy định của pháp luật quốc tế hay không?

Ảnh: Vĩ tuyến 17 chia cắt Việt Nam làm hai miền. Ảnh: BBC.

Sự công nhận của cộng đồng quốc tế không quan trọng?

Pháp luật quốc tế vẫn chưa có một định nghĩa hay tiêu chuẩn chính thức để xác định danh tính quốc gia. Cho đến nay, quốc gia, các tổ chức và các học giả quốc tế đều dựa vào 4 tiêu chuẩn từ Điều ước Montevideo về Quyền và trách nhiệm của Quốc gia, ký kết vào năm 1933.
Đây vốn chỉ là một điều ước khu vực giữa các quốc gia thuộc Châu Mỹ lục địa. Tuy nhiên, theo cân nhắc của nhiều học giả, các tổ chức học thuật có thẩm quyền (như International Law Association hay International Law Commission) và thực hành của nhiều quốc gia khác nhau; bốn tiêu chuẩn này thật sự chỉ pháp điển hoá tập quán pháp quốc tế. Vì vậy, chúng được xem là căn cứ hợp pháp để xác định tư cách quốc gia.
Bốn tiêu chuẩn được ghi nhận gồm:
1) Lãnh thổ xác định.
2) Dân cư xác định (cả hai tiêu chuẩn này không cần thiết phải tuân thủ theo một số lượng cụ thể).
3) Chính phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả.
4) Năng lực tham gia vào điều ước với quốc gia khác.

Có ba điểm cần chú ý trong bộ tiêu chuẩn nói trên.

Một là, khái niệm dân cư không đồng nghĩa với việc nó phải thuộc một nhóm dân tộc, màu da hay tôn giáo nhất định. Theo đó, một quốc gia không nhất thiết chỉ có dân cư thuộc một nhóm dân tộc, màu da hay tôn giáo. Ngược lại, không nhất thiết hai nhóm dân cư cùng thuộc một dân tộc, màu da hay tôn giáo thì phải cùng một quốc gia với nhau.
Hai là, dù chính phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hình thành quốc gia, điều này không nên được hiểu đồng nghĩa với việc chính phủ, chính quyền đương thời tương đồng với sự tồn tại của chính quốc gia đó. Ta có thể hiểu rõ hơn vấn đề này thông qua vài ví dụ như Somalia, Palestine, và Đài Loan.
Somalia tính cho đến nay, có thể đã được xem là “failed state” – “một quốc gia thất bại”, nơi mà chính quyền trung ương biến mất (hoặc không đủ năng lực kiểm soát quốc gia) và được thay thế bởi chủ nghĩa bộ tộc và lãnh chúa địa phương. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là quốc gia Somalia không còn tồn tại và ai cũng có thể xâm chiếm vùng lãnh thổ nói trên.
Tương tự, có thể nói rằng Palestine vẫn chưa có được một chính phủ hiệu quả thống nhất lãnh đạo. Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) được xem là một đại diện lý tưởng cho Palestine, nhưng tranh chấp bạo lực giữa các phe phái như Hamas hay Fatah vẫn còn đó. Mặc dù vậy, việc không có một chính phủ hiệu quả đại diện cho nhóm dân cư này cũng không đồng nghĩa với việc quốc gia Palestine không tồn tại.
Đài Loan, xét mọi mặt, ở một mức độ mạnh mẽ và rõ ràng hơn, có thể xem là một quốc gia độc lập – đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Montevideo. Tuy nhiên, Đài Loan cũng đang đẩy mình vào thế khó theo mặt pháp lý,  tương đương với miền Nam Việt Nam mà bài viết sẽ phân tích ở phần sau.
Ba là, dù yêu cầu thứ tư có nhắc đến việc tham gia vào điều ước quốc tế với quốc gia khác, điều này không đồng nghĩa với việc chính phủ đó phải được cộng đồng quốc tế công nhận. Yêu cầu này nhằm nói đến quyền hạn và năng lực thực thi điều ước nếu được ký kết, không phải nhằm ám chỉ rằng quốc gia đó phải được cộng đồng quốc tế chấp nhận. Hiển nhiên, điều này cũng chỉ mang tính tương đối.
Nhiều học giả đã và đang cân nhắc sức nặng của yếu tố cộng đồng quốc tế, hay cụ thể nhất là việc được tiếp nhận trở thành thành viên của Liên Hiệp Quốc (United Nations – UN). Trên thực tế, được UN hay các cường quốc công nhận là một bước đệm quan trọng, nhưng sự đồng thuận chung của cộng đồng học thuật thế giới và các tổ chức học thuật có thẩm quyền thì đây không phải, và không nên là một yêu cầu bắt  buộc.

Một dân tộc – hai quốc gia? Khả dĩ.

Với những thông tin như trên, chúng ta có thể tập hợp lại và tạo nên một bức tranh chung về “statehood” của hai miền Nam Bắc Việt Nam.
Trước tiên, có đủ căn cứ và cơ sở để cho rằng tồn tại hai quốc gia tách biệt trên lãnh thổ Việt Nam từ năm 1955 cho đến năm 1975.
Cả hai quốc gia đều có lãnh thổ và dân cư xác định, có chính phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả; đều từng tham gia vào các hiệp ước, hiệp định quốc tế.
Vì vậy, dù chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các đồng minh có tuyên bố chính phủ Việt Nam Cộng hòa là ngụy quân, ngụy quyền, bù nhìn của Mỹ; hay ngược lại, dù chính quyền Việt Nam Cộng hòa có lên án chính quyền miền Bắc là quân cờ của Cộng sản, quên lịch sử cha ông… thì cũng không làm thay đổi danh tính pháp lý của họ theo quy chuẩn pháp luật quốc tế.

Tuy nhiên, cách nhìn nhận này cũng không hẳn là hoàn toàn không có kẽ hở.

Đầu tiên, cả hai quốc gia đều cho rằng mình là đại diện hợp pháp cho toàn Việt Nam; tương tự  như vấn đề “Một Trung Quốc ” (One China) giữa Đài Loan và Trung Quốc hiện tại. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tranh chấp hai miền mang dáng dấp của một cuộc nội chiến hơn là tranh chấp liên quốc gia. Tuy nhiên, theo người viết, điều này không làm mất đi bản chất nhà nước của hai quốc gia theo tiêu chuẩn của Montevideo.
Thứ hai, phải tính đến luận điểm cho rằng Ngô Đình Diệm, chính quyền Bảo Đại và Hoa Kỳ đã không tôn trọng Hiệp định Geneva và không tuân thủ việc thi hành cuộc tổng tuyển cử 1956 như dự định.
Nhưng nếu cho rằng Hiệp định Geneva giải quyết được vấn đề Việt Nam thì cũng không tôn trọng quyền dân tộc tự quyết (self-determination) của một bộ phận người dân Việt Nam, quy định tại Khoản 2, Điều 1, Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Đặc biệt, bối cảnh pháp lý của hai chính quyền tồn tại song song ở thời điểm này tương đối phức tạp.
Tính chính danh của chính phủ VNDCCH chủ yếu dựa vào cuộc tổng tuyển cử năm 1946. Tính chính danh này càng được tăng cường hơn sau khi vua Bảo Đại chính thức thoái vị và trao lại ấn tín, quốc bảo của hoàng triều Nguyễn cho đại diện chính Phủ VNDCCH Trần Huy Liệu ngày 25/8/1945.
Tuy nhiên, với Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt ngày 6/3/1946, được ký kết giữa ông Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp, và ông Hồ Chí Minh cùng ông Vũ Hồng Khanh, đại diện chính phủ VNDCCH; VNDCCH chỉ còn lại phía Bắc Việt Nam (và vẫn thuộc khối Liên hiệp Pháp), miền Nam Việt Nam vẫn thuộc nhà nước Cộng Hòa Pháp với lời hứa hẹn cho một cuộc trưng cầu dân ý – thống nhất với VNDCCH trong tương lai. Ngày 1 tháng 6 cùng năm, người Pháp thành lập Nam Kỳ Quốc đặt thủ phủ tại Sài Gòn.
Trong giai đoạn từ 1946 đến 1949, sự cứng đầu của cựu vương tân Quốc trưởng Bảo Đại đối với các đại biểu Pháp cũng đã giúp Quốc Gia Việt Nam thành lập với cơ sở của Hiệp ước Elysée (8/3/1949). Trải qua nhiều biến cố với cuộc “đảo chính bằng phiếu” của ông Ngô Đình Diệm, chính quyền Quốc gia Việt Nam cũng có nền tảng pháp lý khá tương đồng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Vì vậy, việc Cộng hòa Pháp tự tiếp tục cho mình toàn quyền sắp đặt ngày tổng tuyển cử với Hiệp định Geneva là can dự vào nội bộ Việt Nam, một việc làm không thỏa đáng, đặc biệt khi hai bên duy nhất chấp nhận ký kết hiệp định chỉ có chính phủ kháng chiến của VNDCCH và nhà nước Cộng hòa Pháp, còn chính phủ Bảo Đại và Hoa Kỳ đều phản đối Hiệp định.

Lời kết

Với tất cả các thông tin nói trên, cân nhắc nền tảng pháp lý tương đồng, năng lực quản lý tương đương, có đầy đủ lý do (theo công pháp quốc tế) để cho rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa là hai thực thể nhà nước hoàn toàn độc lập.
Vậy nên, hành vi dùng vũ lực quân sự để tước đoạt chính quyền, lãnh thổ của một quốc gia khác, theo định nghĩa của Điều 1, Nghị quyết 3314 năm 1974 của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, là hành vi xâm lược theo công pháp quốc tế./.

Tác giả: NGUYỄN QUỐC TẤN TRUNG
Nguồn:  http://luatkhoa.info/2017/04/1954-1975-

Tài liệu tham khảo:
Toàn văn Hiến chương Liên Hiệp Quốc
Toàn văn Nghị quyết 3314 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc
Thomas D. Grant; Defining Statehood: The Montevideo Convention and its Discontents (Columbia Journal of Transnational Law, 1999)
James Crawford; The Creation of State of Palestine: Too much too soon?(EJIL, 1990)

A Vietnam War Timeline
Vua Bảo Đại (Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy) – Lịch sử Việt Nam


Vì sao người quân tử không tranh cãi với kẻ tiểu nhân?

Không tranh cãi với kẻ tiểu nhân Khổng Tử có một cậu học trò rất thích tranh luận. Một hôm, người học trò này đến thăm Khổng Tử t...