Lãnh đạo cấp cao nhất của hai Đảng tại Hội nghị Thành Đô
Tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt chính
thức thăm Trung Quốc, lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện
bình thường hóa mối quan hệ Trung –Việt, từ đó kết thúc trạng thái đối lập
trong mối quan hệ giữa hai nước kéo dài tới 13 năm. Cần nói rằng để đạt được
mục tiêu ấy, cả hai bên đều đã có những cố gắng lớn, trong đó cuộc gặp Thành Đô
tháng 9-1990 giữa người lãnh đạo hai nước có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Nó
đánh dấu điểm ngoặt trong mối quan hệ Trung-Việt, không những san bằng con
đường bình thường hóa mối quan hệ này mà còn có ảnh hưởng sâu sắc lâu dài tới
sự tiếp tục phát triển mối quan hệ hai nước.
Thay đổi chính quyền, quan hệ Trung
-Việt xuất hiện tia sáng ban mai
Năm 1975 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam kết thúc, những người lãnh đạo Việt Nam hồi đó đã không kịp thời hàn gắn các vết thương do chiến tranh mang lại, mà triệt để xa rời đường lối Hồ Chí Minh, đối nội cưỡng chế thi hành cải tạo XHCN quá “tả”, đối ngoại dựa vào sự ủng hộ của Liên Xô, ra sức đẩy mạnh chủ nghĩa bá quyền khu vực, điên cuồng chắp nối lắp ghép “Liên bang Đông Dương”. Dưới sự dẫn dắt của đường lối sai lầm đó, Việt Nam một mặt công khai chống Trung Quốc, một mặt ra sức khống chế Lào, thậm chí phát động xâm lược vũ trang Campuchia. Những việc làm của họ đã đưa nền kinh tế Việt Nam tiến gần tới miệng hố sụp đổ, hoàn cảnh quốc tế bị cô lập chưa từng thấy.
Năm 1975 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam kết thúc, những người lãnh đạo Việt Nam hồi đó đã không kịp thời hàn gắn các vết thương do chiến tranh mang lại, mà triệt để xa rời đường lối Hồ Chí Minh, đối nội cưỡng chế thi hành cải tạo XHCN quá “tả”, đối ngoại dựa vào sự ủng hộ của Liên Xô, ra sức đẩy mạnh chủ nghĩa bá quyền khu vực, điên cuồng chắp nối lắp ghép “Liên bang Đông Dương”. Dưới sự dẫn dắt của đường lối sai lầm đó, Việt Nam một mặt công khai chống Trung Quốc, một mặt ra sức khống chế Lào, thậm chí phát động xâm lược vũ trang Campuchia. Những việc làm của họ đã đưa nền kinh tế Việt Nam tiến gần tới miệng hố sụp đổ, hoàn cảnh quốc tế bị cô lập chưa từng thấy.
Tháng 7-1986, Tổng Bí
thư ĐCSVN Lê Duẩn ốm chết. Tháng 12 cùng năm, tại Đại hội VI ĐCSVN, Nguyễn Văn
Linh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng. Trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ
những năm 60, Nguyễn Văn Linh là thành viên ban lãnh đạo Trung ương Cục Miền
Nam ĐCSVN, từng nhiều lần bí mật thăm Trung Quốc, có thái độ thành khẩn hữu hảo
đối với Trung Quốc, rất được Mao Chủ tịch và Thủ tướng Chu Ân Lai đánh giá cao,
cho rằng ông là người lãnh đạo kế tục rất có hy vọng của Việt Nam. Nhưng sau
khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, Nguyễn Văn Linh không tán thành chính sách
đối nội đối ngoại sai lầm của người lãnh đạo đương thời, vì thế ông từng mấy
lần bị gạt bỏ. Sau khi lên làm Tổng Bí thư ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh khẩn trương
uốn nắn toàn bộ cách làm sai lầm của người tiền nhiệm, đề xuất khẩu hiệu Việt
Nam cần phải “làm bạn với tất cả các nước”. Ông cho rằng lúc đó Việt Nam có hai
nhiệm vụ khẩn thiết nhất là rút quân khỏi Campuchia và cải thiện quan hệ với
Trung Quốc.
Thế nhưng Bộ Ngoại
giao do Nguyễn Cơ Thạch, – một thân tín của Tổng Bí thư tiền nhiệm, Ủy viên Bộ
Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nắm giữ – vẫn tiếp tục hành sự theo tư
duy của Lê Duẩn, tìm đủ mọi cách can nhiễu và ngăn cản sự bố trí chiến lược của
Nguyễn Văn Linh. Là người lãnh đạo mới lên nắm quyền, Nguyễn Văn Linh chưa có
cơ sở vững chắc trong tầng lớp quyết sách ở trung ương; một số ý tưởng của ông
cũng chưa được nhiều người lãnh đạo hiểu biết và ủng hộ. Trong tình hình đó,
làm thế nào mới có thể thực hiện được mục tiêu nói trên là một vấn đề hóc búa
và đau đầu nhưng lại tất phải giải quyết.
Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc ba lần xin gặp Đặng Tiểu Bình thổ
lộ điều bí mật
Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc. Hồi ấy tôi là Trưởng phòng Đông Dương, Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao có tham gia công tác tiếp đón. Theo kế hoạch đón tiếp được Trung ương duyệt thì Thủ tướng Lý Bằng sẽ chủ trị hội đàm, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân hội kiến và mở tiệc chiêu đãi loại thường (nguyên văn tiện yến). Nhưng phía Lào tha thiết mong muốn đồng chí Đặng Tiểu Bình có thể hội kiến Cay-xỏn Phôm-vi-hản. Phía Trung Quốc tỏ ý Đặng Tiểu Bình tuổi đã cao, không thể gặp bất cứ khách nước ngoài nào, xin thông cảm. Dù vậy, Cay-xỏn Phôm-vi-hản vẫn kiên trì yêu cầu gặp Đặng Tiểu Bình, tôi nhớ là họ trước sau ba lần đề ra vấn đề này. Trong tình hình đó, qua nhiều lần nghiên cứu, bàn bạc, cuối cùng thỏa thuận mời Đặng Tiểu Bình gặp ngắn gọn có tính nghi lễ. Vì vậy Bộ Ngoại giao cũng không chuẩn bị đề cương chi tiết các điểm chính để tham khảo khi trò chuyện.
Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc. Hồi ấy tôi là Trưởng phòng Đông Dương, Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao có tham gia công tác tiếp đón. Theo kế hoạch đón tiếp được Trung ương duyệt thì Thủ tướng Lý Bằng sẽ chủ trị hội đàm, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân hội kiến và mở tiệc chiêu đãi loại thường (nguyên văn tiện yến). Nhưng phía Lào tha thiết mong muốn đồng chí Đặng Tiểu Bình có thể hội kiến Cay-xỏn Phôm-vi-hản. Phía Trung Quốc tỏ ý Đặng Tiểu Bình tuổi đã cao, không thể gặp bất cứ khách nước ngoài nào, xin thông cảm. Dù vậy, Cay-xỏn Phôm-vi-hản vẫn kiên trì yêu cầu gặp Đặng Tiểu Bình, tôi nhớ là họ trước sau ba lần đề ra vấn đề này. Trong tình hình đó, qua nhiều lần nghiên cứu, bàn bạc, cuối cùng thỏa thuận mời Đặng Tiểu Bình gặp ngắn gọn có tính nghi lễ. Vì vậy Bộ Ngoại giao cũng không chuẩn bị đề cương chi tiết các điểm chính để tham khảo khi trò chuyện.
Không ngờ hai vị lãnh
đạo nói chuyện lâu tới 40 phút, hơn nữa đều nói về những vấn đề có tính thực
chất rất quan trọng. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thành khẩn thừa nhận trong 10 năm qua
mối quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào trạng thái không bình thường là do chịu
“ảnh hưởng từ bên ngoài”, chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ đánh dấu việc hoàn
toàn bình thường hóa quan hệ hai nước. Đồng thời Cay-xỏn Phôm-vi-hản còn chuyển
lời hỏi thăm thân thiết của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh tới Đặng Tiểu
Bình, nói Việt Nam đã có nhận thức mới đối với tình hình Trung Quốc, thái độ
đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, còn nói Nguyễn Văn Linh hy vọng Trung Quốc
có thể mời ông thăm Trung Quốc.
Đặng Tiểu Bình cũng
mời Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển hộ lời hỏi thăm Nguyễn Văn Linh và nói:
Tôi quen đồng chí Nguyễn Văn Linh từ lâu, tôi biết đồng chí ấy tư duy linh hoạt, rất có lý trí, công tác rất đắc lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đồng chí ấy. Tôi mong muốn đồng chí Nguyễn Văn Linh quả quyết giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia. Hiện nay tôi đã già, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng trước khi nghỉ hưu hoặc không lâu sau khi tôi nghỉ hưu, vấn đề Campuchia sẽ có thể được giải quyết, mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam khôi phục bình thường, như vậy một nỗi băn khoăn (nguyên văn tâm sự) của tôi sẽ được dẹp bỏ.
Tôi quen đồng chí Nguyễn Văn Linh từ lâu, tôi biết đồng chí ấy tư duy linh hoạt, rất có lý trí, công tác rất đắc lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đồng chí ấy. Tôi mong muốn đồng chí Nguyễn Văn Linh quả quyết giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia. Hiện nay tôi đã già, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng trước khi nghỉ hưu hoặc không lâu sau khi tôi nghỉ hưu, vấn đề Campuchia sẽ có thể được giải quyết, mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam khôi phục bình thường, như vậy một nỗi băn khoăn (nguyên văn tâm sự) của tôi sẽ được dẹp bỏ.
Đặng Tiểu Bình đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam
phải rút sạch sành sanh quân đội ra khỏi Campuchia. Ông nhờ Cay-xỏn Phôm-vi-hản
chuyển những ý kiến đó tới Nguyễn Văn Linh. Ngoài ra Đặng Tiểu Bình còn nói một
câu ý vị sâu sắc : “Nguyễn Cơ Thạch, cái người này thích hoạt động lén
lút.” Lúc ấy tôi làm công tác ghi chép tại chỗ, cảm thấy câu này dường như
buột miệng nói ra, nhưng trọng lượng rất nặng. Theo tôi hiểu, câu nói ấy muốn
bảo Nguyễn Văn Linh rằng Trung Quốc đã mất niềm tin với Nguyễn Cơ Thạch, cho dù
là giải quyết vấn đề Campuchia hay thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung
– Việt đều không thể hy vọng và dựa vào Nguyễn Cơ Thạch.
Nguyễn Văn Linh tiếp Đại sứ Trung Quốc
để tỏ ý hữu hảo
Cay-xỏn Phôm-vi-hản trên đường về nước có dừng lại ngắn ngày ở Việt Nam, ông đã kịp thời và toàn diện chuyển tới Nguyễn Văn Linh lời nhắn của Đặng Tiểu Bình. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh rất coi trọng, càng có hiểu biết thiết thân về “hoạt động lén lút” của Nguyễn Cơ Thạch. Ông hiểu rằng muốn cải thiện quan hệ Việt –Trung trước hết phải giải quyết vấn đề Campuchia, mà giải quyết vấn đề Campuchia như thế nào thì phải bàn với Trung Quốc. Ông còn ý thức được rằng Đặng Tiểu Bình tuy đã gửi lời nhắn nhưng lại không đưa ra lời mời mình thăm Trung Quốc. Trong tình hình đó làm cách nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông cần gấp rút giải quyết.
Cay-xỏn Phôm-vi-hản trên đường về nước có dừng lại ngắn ngày ở Việt Nam, ông đã kịp thời và toàn diện chuyển tới Nguyễn Văn Linh lời nhắn của Đặng Tiểu Bình. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh rất coi trọng, càng có hiểu biết thiết thân về “hoạt động lén lút” của Nguyễn Cơ Thạch. Ông hiểu rằng muốn cải thiện quan hệ Việt –Trung trước hết phải giải quyết vấn đề Campuchia, mà giải quyết vấn đề Campuchia như thế nào thì phải bàn với Trung Quốc. Ông còn ý thức được rằng Đặng Tiểu Bình tuy đã gửi lời nhắn nhưng lại không đưa ra lời mời mình thăm Trung Quốc. Trong tình hình đó làm cách nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông cần gấp rút giải quyết.
Ngày 5-6-1990, qua sự
nỗ lực của nhiều bên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã hội kiến Đại sứ Trung Quốc
ở Việt Nam Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương ĐCSVN. Trước tiên Nguyễn Văn
Linh nhờ Đại sứ Trương chuyển lời hỏi thăm của ông tới các đồng chí lãnh đạo
Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Lý Bằng. Nguyễn Văn Linh nói, trong
thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, ông từng nhiều lần đi Trung Quốc, đã gặp
Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, các đồng chí Đặng Tiểu Bình v.v… Mao Chủ
tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, đồng chí Đặng Tiểu Bình là người cùng thế hệ với Hồ
Chủ tịch; Nguyễn Văn Linh là học trò của họ. Trong thời kỳ cách mạng và kháng
chiến cũng như trong nhà tù của kẻ địch, ông luôn luôn học tập và nghiên cứu
các trước tác của Mao Chủ tịch bàn về cách mạng dân tộc dân chủ, được lợi không
ít. Trong thời kỳ Việt Nam chống Pháp, chống Mỹ, Trung Quốc đã viện trợ to lớn
cho Việt Nam về mọi mặt, cả đến gạo, bánh quy nén, dưa chua, đều do Trung Quốc
giúp. Hơn nữa Trung Quốc cũng giúp Việt Nam rất nhiều về chiến lược và tư tưởng
chỉ đạo, thí dụ Việt Nam làm chiến tranh nhân dân là học tư tưởng chiến tranh
nhân dân của Mao Chủ tịch rồi vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Có thể nói nếu
không có sự viện trợ của Trung Quốc thì Việt Nam không thể đánh bại đế quốc Mỹ.
Nguyễn Văn Linh nói,
sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, toàn quốc thống nhất, Việt Nam lẽ ra
nên tập trung lực lượng xây dựng kinh tế, nhưng đã xuất hiện tình hình khó khăn
và phức tạp không ngờ tới, mười mấy năm nay Việt Nam càng gian khổ hơn thời kỳ
chống Mỹ, đời sống ngày càng khó khăn, đặc biệt là mối quan hệ Việt –Trung xuất
hiện khó khăn. Ông nói rằng Việt Nam đã làm một số việc không tốt với Trung Quốc.
Ông luôn chủ trương làm sai thì phải sửa. Mong các đồng chí Trung Quốc thông
cảm và bỏ qua những chuyện về mặt này, chuyện đã qua rồi thì để nó qua đi thôi.
Việc quan trọng hơn trước mắt là làm tốt mối quan hệ giữa hai nước hiện nay và
sau này.
Nguyễn Văn Linh nói
tình hình quốc tế đang thay đổi mạnh, tình thế ở Đông Âu diễn biến rất phức
tạp, tình thế Liên Xô cũng rất nghiêm trọng. Bọn đế quốc dốc sức can thiệp, ra
sức làm diễn biến hòa bình, mơ tưởng một lần tiêu diệt chủ nghĩa xã hội. Trước
kia mọi người nói Liên Xô là thành trì của hòa bình thế giới, nhưng hiện nay
thành trì này đang lung lay. Trung Quốc là một nước lớn, Đảng Trung Quốc là một
đảng lớn, lại kiên định đi con đường XHCN. Trong tình hình hiện nay, Trung Quốc
có địa vị và tác dụng đặc biệt quan trọng. Chúng tôi cần Trung Quốc giơ ngọn cờ
XHCN. Hai nước Việt Nam – Trung Quốc là láng giềng XHCN. Việt Nam là nước nhỏ,
Đảng Việt Nam là đảng nhỏ, rất cần có sự ủng hộ và giúp đỡ của một nước lớn,
đảng lớn như Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh nói đây là lời thực lòng của ông.
Nguyễn Văn Linh nói,
vấn đề Campuchia dù thế nào cũng phải giải quyết một cách hòa bình, Campuchia
trong tương lai không nên thân phương Tây, cũng không được để phương Tây và
Liên Hợp Quốc can thiệp quá sâu. Bởi vậy hai phía Việt Nam – Trung Quốc có thể
hợp tác với nhau, từ bên trong thúc đẩy Pol Pot, Ieng Sary hòa giải với Heng
Samrin, Hun Sen, đối ngoại vẫn có thể theo con đường thương lượng giữa các bên
hiện nay. Ý tưởng gạt bỏ Khmer Đỏ là không thực tế.
Nguyễn Văn Linh tỏ ý ông
rất muốn gặp mặt các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc cao nhất để trao đổi ý kiến
một cách thấu triệt, như anh em với nhau, có thể không câu nệ nghi lễ ngoại
giao. Ông nói, kinh nghiệm lịch sử cho thấy người lãnh đạo cao nhất hai nước
trực tiếp nói chuyện với nhau thì dễ hiểu biết thông cảm lẫn nhau và đạt được
nhất trí, cũng có thể giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng. Nguyễn Văn Linh
còn nói, ông đã nhiều tuổi, muốn trước khi nghỉ hưu có thể bàn bạc cùng với
người lãnh đạo Trung Quốc giải quyết xong dứt điểm vấn đề Campuchia và khôi
phục quan hệ Việt –Trung.
Khi hội kiến, Bộ
trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói chuyện hoàn
toàn khác với luận điệu cũ rích chống Trung Quốc của Nguyễn Cơ Thạch. [Tôi]
đoán rằng việc bố trí Nguyễn Cơ Thạch dự hội kiến rất có thể có dụng ý là để
ông ta mặt đối mặt nghe xem rốt cuộc Tổng Bí thư nói gì, cũng có thể lúc ấy
[Tổng Bí thư] còn có chút hy vọng với ông ta, dành cho ông ta cơ hội thay đổi
cách làm việc. Dĩ nhiên cũng chính là do Nguyễn Cơ Thạch có mặt nên Nguyễn Văn
Linh chưa nói sâu sắc, thấu triệt hơn.
Sau khi kết thúc cuộc
hội kiến, Đại sứ Trương lập tức báo cáo cho bên nhà biết chi tiết nội dung cuộc
nói chuyện của Nguyễn Văn Linh và thỉnh thị trong nước có chỉ thị gì. Bên nhà
nghiên cứu kỹ rồi nhanh chóng trả lời rằng hãy cứ yêu cầu Việt Nam rút nhanh
quân đội ra khỏi Campuchia và giải quyết ổn thỏa vấn đề liên hợp hai bên đối
lập ở Campuchia sau khi rút quân, tức chính quyền Phnom Penh với ba phái lực
lượng chống đối, sau đó sẽ từng bước thu xếp suôn sẻ cuộc gặp cấp cao giữa nhà
lãnh đạo hai nước. Trong tình hình đó, làm cách nào để phá vỡ thế bí, thực hiện
cuộc gặp với lãnh đạo Trung Quốc là vấn đề đòi hỏi Nguyễn Văn Linh suy nghĩ rất
lung.
Một nhân vật bí ẩn xuất hiện ở Sứ quán
cho xem mật thư
Sáng ngày 16-8-1990, một cán bộ họ Hoàng của Viện Khoa học xã hội Việt Nam đến trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc. Ông nói với nhân viên tiếp đón của Sứ quán là có việc cần gặp Đại sứ Trương. Đại sứ đã tiếp ông này tại phòng khách Sứ quán. Vì Đại sứ Trương thạo tiếng Việt nên hai người nói chuyện không cần phiên dịch. Hoàng nói nhà ông ở gần nhà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tối ngày 13/8 Tổng Bí thư cho xe đón ông đến nhà nói chuyện một giờ đồng hồ. Tổng Bí thư nói ông vốn dĩ muốn một lần nữa hẹn gặp Đại sứ Trương nhưng Bộ Ngoại giao ngăn cản, nói là không cần thiết. Vì vậy Tổng Bí thư nhờ Hoàng nhắn miệng tới Đại sứ Trương.
Sáng ngày 16-8-1990, một cán bộ họ Hoàng của Viện Khoa học xã hội Việt Nam đến trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc. Ông nói với nhân viên tiếp đón của Sứ quán là có việc cần gặp Đại sứ Trương. Đại sứ đã tiếp ông này tại phòng khách Sứ quán. Vì Đại sứ Trương thạo tiếng Việt nên hai người nói chuyện không cần phiên dịch. Hoàng nói nhà ông ở gần nhà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tối ngày 13/8 Tổng Bí thư cho xe đón ông đến nhà nói chuyện một giờ đồng hồ. Tổng Bí thư nói ông vốn dĩ muốn một lần nữa hẹn gặp Đại sứ Trương nhưng Bộ Ngoại giao ngăn cản, nói là không cần thiết. Vì vậy Tổng Bí thư nhờ Hoàng nhắn miệng tới Đại sứ Trương.
Nói đoạn, Hoàng lấy từ
túi áo ra một mảnh giấy viết thư gập lại rất nhỏ và giải thích đây là những
điều ông ghi lại lời của Tổng Bí thư, đã được Tổng Bí thư soát lại không có gì
sai. Trong đó có đoạn nói :
“Tháng 10 năm ngoái, đồng chí Cay-xỏn
chuyển tới tôi lời hỏi thăm của đồng chí Đặng Tiểu Bình và lời nhắn miệng nói
đồng chí hy vọng trong những năm còn sống được thấy quan hệ Trung Quốc – Việt
Nam bình thường hóa, tôi rất hoan nghênh những điều đó. Cũng vậy, tôi tha thiết
mong muốn trong nhiệm kỳ tôi chủ trì Trung ương ĐCSVN khóa VI có thể khôi phục
quan hệ Việt Nam – Trung Quốc để từ Đại hội VII sắp họp sẽ bắt đầu một giai đoạn
mới trong quan hệ giữa hai nước. Làm được việc này tôi mới xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân Việt Nam và đảng viên ĐCSVN dành cho tôi.”
“Sở dĩ vấn đề Campuchia – trở ngại ấy
cãi nhau mãi chưa thể giải quyết là do Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm chệch hướng
việc này. Tôi cho rằng hiện nay người lãnh đạo hai nước cần phải bàn bạc trực
tiếp và đi sâu, nhằm thanh toán hết mọi hiểu lầm và loại bỏ sự can thiệp của Bộ
Ngoại giao Việt Nam. Tôi tin rằng những người cộng sản chân chính của hai nước
đều xuất phát từ hy vọng tha thiết bảo vệ CNXH và khôi phục tình hữu nghị trong
sáng chân thành giữa hai nước để tiến hành gặp gỡ, vấn đề Campuchia nhất định
có thể nhanh chóng được giải quyết. Nếu các đồng chí Trung Quốc cũng có quan
điểm như vậy thì đề nghị gửi lời mời nội bộ, tôi sẽ lập tức bí mật đi Trung
Quốc.”
“Để việc thảo luận tiến hành được chắc
chắn tin cậy, để sau khi về nước tôi có thể thuyết phục có hiệu quả tập thể Ban
Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị ĐCSVN, tốt nhất nên có hai đồng chí Đỗ
Mười, Phạm Văn Đồng cùng tôi đi Trung Quốc.”
“Điểm xuất phát tôi yêu cầu đi thăm
Trung Quốc nội bộ là để đích thân thâm nhập nghe ý kiến của các đồng chí Giang
Trạch Dân, Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng, cũng là để các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc
đích thân thâm nhập hiểu rõ cá nhân tôi. Hai bên cùng nhau thành khẩn tìm ra
phương án giải quyết tốt nhất một loạt vấn đề, trước hết là vấn đề Campuchia.
Trước mắt tôi có khó khăn nhất định nhưng tôi có niềm tin.”
“Nếu được các đồng chí Trung Quốc ủng hộ
và giúp đỡ, tôi sẽ đi theo đường lối của Hồ Chủ tịch, thuận lợi tiến chắc tới
mục tiêu trên phương diện xây dựng tình hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ
CNXH và lợi ích cách mạng chung.”
Đỗ Mười mà Nguyễn Văn
Linh nhắc tới là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Việt Nam, Phạm Văn
Đồng là cựu Thủ tướng Việt Nam, bấy giờ làm Cố vấn Trung ương Đảng.
Hoàng giải thích, ông
hiểu ý của Tổng Bí thư là: do Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ngấm ngầm gây bế
tắc, tiến trình Việt Nam – Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục
quan hệ hai nước bị cản trở, bởi thế Tổng Bí thư muốn đi vòng qua Nguyễn Cơ
Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ấy nắm, lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp gặp
nhau, sau khi bàn bạc quyết định vấn đề rồi có thể ra lệnh cho Bộ Ngoại giao
quán triệt chấp hành.
Tiễn đưa Hoàng xong,
việc đầu tiên Đại sứ Trương vội làm là lập tức báo cáo trong nước biết các ý
kiến Nguyễn Văn Linh nhờ Hoàng chuyển giúp. Nhưng đồng thời [Đại sứ] cần xem
xét một vấn đề là Đại Sứ quán có nên đề xuất với trong nước quan điểm và kiến
nghị của mình hay không. Chỗ khó là bên nhà vừa mới trả lời rõ ràng yêu cầu đi
thăm nội bộ Trung Quốc do Nguyễn Văn Linh đề ra hôm mồng 5 tháng 6, tức đòi
phía Việt Nam trước tiên phải giải quyết vấn đề rút quân khỏi Campuchia và xúc
tiến việc thành lập sự liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia, rồi mới thu xếp
cuộc gặp người lãnh đạo hai nước. Trong tình hình này, nếu lặp lại ý kiến của
bên nhà thì coi như không nêu ra kiến nghị nữa; nhưng nếu đưa ra kiến nghị khác
với ý kiến bên nhà thì liệu có bị hiểu nhầm là chủ trương ngược lại với trong
nước chăng?
Vì việc đó, chiều hôm
ấy khi vừa bắt đầu giờ làm việc, Đại sứ Trương gọi tôi và hai Bí thư thứ nhất
cùng bàn bạc. Qua thảo luận, Đại sứ Trương và chúng tôi nhất trí cho rằng chức
trách của Đại Sứ quán là đứng gác cho trong nước, làm tốt nhiệm vụ tham mưu.
Phúc đáp lần trước của trong nước rõ ràng là đúng, nhưng hiện giờ xuất hiện
tình hình mới, Nguyễn Văn Linh quyết kế đi vòng qua Nguyễn Cơ Thạch để tiến
hành bàn bạc chân thành có tính thực chất với người lãnh đạo nước ta; vì vậy
Đại Sứ quán nên căn cứ tình hình mới, mạnh dạn nêu ra kiến nghị mới. Thế là Sứ
quán trịnh trọng kiến nghị bên nhà tích cực xem xét việc Nguyễn Văn Linh một
lần nữa nêu yêu cầu thăm Trung Quốc nội bộ.
Đại sứ Trương thi hành diệu kế đến thăm
Bộ Quốc phòng
Đêm 19 tháng 8, Sứ quán nhận được trả lời của trong nước. Bên nhà chỉ thị Đại sứ Trương tìm cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người tin cậy ở bên cạnh Nguyễn Văn Linh đề xuất Đại sứ muốn sớm gặp riêng Tổng Bí thư để trực diện tìm hiểu ý đồ thật sự của Tổng Bí thư; có kết quả gì lập tức báo cáo trong nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, đối với Đại sứ, đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu và vượt trên tất cả mọi nhiệm vụ khác, nhưng chẳng nói cũng rõ mức độ khó khăn của công việc này.
Đêm 19 tháng 8, Sứ quán nhận được trả lời của trong nước. Bên nhà chỉ thị Đại sứ Trương tìm cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người tin cậy ở bên cạnh Nguyễn Văn Linh đề xuất Đại sứ muốn sớm gặp riêng Tổng Bí thư để trực diện tìm hiểu ý đồ thật sự của Tổng Bí thư; có kết quả gì lập tức báo cáo trong nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, đối với Đại sứ, đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu và vượt trên tất cả mọi nhiệm vụ khác, nhưng chẳng nói cũng rõ mức độ khó khăn của công việc này.
8 giờ sáng ngày 20,
Đại sứ Trương triệu tập cuộc họp mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu cách thực
hiện chỉ thị của trong nước, nhưng chẳng ai đề ra được kế sách hay nào. Mọi
người đều rõ, trong suốt những năm 80, Việt Nam luôn luôn coi Trung Quốc là “kẻ
địch trực tiếp nhất, nguy hiểm nhất”, các phương tiện truyền thông như báo chí,
đài phát thanh truyền hình đều phát đi những nội dung chống Trung Quốc; trong
các buổi chiêu đãi và mọi nghi thức ngoại giao, bất cứ quan chức Việt Nam nào
cũng không dám nói chuyện với quan chức ngoại giao Trung Quốc. Trong tình hình
như vậy, chưa nói việc chẳng có cách nào tìm gặp được người tin cậy ở bên
Nguyễn Văn Linh mà ngay cả chuyện ai là người tin cậy ở bên Tổng Bí thư, cũng
không ai biết.
Trong tình hình tìm
không ra manh mối nào, mọi người không hẹn mà cùng nhớ tới một chuyện. Đó là
ngày 6 tháng 6, tức sau hôm Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương, Đại tướng Lê Đức
Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam có gặp riêng và mời
cơm Đại sứ Trương. Ngoài việc giải thích thêm tinh thần câu chuyện Nguyễn Văn
Linh nói hôm mồng 5 ra, Lê Đức Anh còn nói không ít những lời hữu nghị với
Trung Quốc. Thế là Đại sứ Trương quyết định thử dùng kênh thông qua Bộ Quốc
phòng và Lê Đức Anh xem sao; ông chỉ thị Tùy viên quân sự Sứ quán là Thượng tá
Triệu Nhuệ lập tức hành động.
Quả nhiên Đại tướng Lê
Đức Anh rất vui lòng gặp Đại sứ Trương. Tám giờ sáng ngày 21, Đại sứ Trương đi
một chiếc xe con không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc phòng Việt Nam. Lê Đức Anh thân
mật bắt tay, ôm vai Đại sứ Trương và nói Đại sứ muốn gặp ông lúc nào ông đều
hoan nghênh cả. Đại sứ Trương đi thẳng ngay vào vấn đề, tóm tắt kể lại một lượt
việc hôm trước Hoàng Nhật Tân chuyển tới Đại sứ những lời của Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh, ngỏ ý bản thân Đại sứ rất muốn trực diện nghe ý kiến của Tổng
Bí thư, hy vọng Lê Đức Anh liên hệ giúp. Lê tỏ ý sẽ lập tức làm ngay việc này.
Chiều hôm ấy Cục
trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh khẩn cấp hẹn gặp Tùy
viên quân sự Sứ quán Trung Quốc Triệu Nhuệ và báo cho biết: Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Đại sứ Trương vào 7 giờ 30 tối ngày 22 tại Nhà
khách Bộ Quốc phòng, hai bên đều không mang theo phiên dịch viên, kiến nghị Đại
sứ Trương đi xe khác, không cắm quốc kỳ. Vũ còn nói việc này chỉ có ông và
Trưởng phòng Vũ Tần của Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam biết, những người
khác đều không biết. Sau khi về Sứ quán, Tùy viên Triệu lập tức báo cáo Đại sứ
Trương.
Có những sự việc không hẹn mà gặp nhau. Vợ
chồng Đại sứ Trương vốn dĩ đã ấn định 6 giờ 30 tối ngày 22 mời cơm vợ chồng Đại
sứ Malaysia, trước đó đã gửi thiếp mời. Để không thất lễ mà lại có thể bảo đảm
đúng giờ đi gặp Nguyễn Văn Linh, Đại sứ quyết định giả vờ ốm, để tôi và phu
nhân Đại sứ tiếp khách dùng cơm. Tối hôm ấy vợ chồng Đại sứ Malaysia đúng giờ
đến Đại Sứ quán. Sau khi vào phòng khách, họ thấy Đại sứ Trương vẻ thiểu não
đang ngồi trên ghế được người phiên dịch và nhân viên tiếp tân dìu đứng dậy,
mệt nhọc nói : “Xin chào Đại sứ và phu nhân. Rất xin lỗi các ngài là cái
bệnh Meniere[2] của
tôi lại tái phát, làm cho tôi bị nhức đầu buồn nôn, vì thế tôi chỉ có thể tiếp
các ngài được một lúc thôi ạ. Ông Lý, Tham tán Chính trị của Đại Sứ quán và phu
nhân của tôi sẽ tiếp ngài Đại sứ và phu nhân dùng cơm.” Nghe nói vậy, Đại sứ
Malaysia rất cảm động, ông nói : “Ngài Đại sứ đang đau ốm mà vẫn ra đón
khách, chúng tôi thật không phải với ngài. Xin mời Đại sứ về nghỉ ngơi, chúc
ngài sớm bình phục.” Nói đoạn, ông thân chinh dìu Đại sứ Trương đứng dậy, hai
người bắt tay tạm biệt. Vừa ra khỏi phòng khách, Đại sứ Trương rảo bước đi tới
chiếc xe đang chờ sẵn trong sân. Chiếc Toyota màu đen phóng ngay tới Bộ Quốc
phòng Việt Nam.
Nguyễn Văn Linh bí mật gặp Đại sứ Trương
Khi gặp Đại sứ Trương, trước tiên Nguyễn Văn Linh khẳng định ông đã nhờ Hoàng Nhật Tân là con trai Hoàng Văn Hoan chuyển lời nhắn tới Đại sứ Trương, nội dung cũng chính xác không có gì sai cả. Nguyễn Văn Linh nói bản thân ông trước nay đều cho rằng Việt Nam nên giữ quan hệ tốt với Trung Quốc. Năm 1976, tại Đại hội IV ĐCSVN, vì không đồng ý với một số biện pháp làm xấu mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc của chính quyền hồi ấy mà ông bị lên án là “hữu khuynh”. Năm 1982 tại Đại hội V ĐCSVN lại vì ông chủ trương trong giai đoạn hiện nay Việt Nam nên cho phép đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế và không đồng ý với chính sách chống Trung Quốc mà bị chèn ép ra khỏi Bộ Chính trị. Hồi ấy ông rất khó hiểu tại sao lại áp dụng thái độ như vậy với Trung Quốc. Nếu Bác Hồ còn thì nhất định sẽ không xuất hiện những chuyện kỳ quặc như thế. Nguyễn Văn Linh còn nói, chính sách của Việt Nam đối với Hoa kiều và người Hoa cũng sai lầm. Hoa kiều và người Hoa có đóng góp quý giá cho cách mạng Việt Nam, sau khi chiến thắng, Việt Nam lại kỳ thị họ, xua đuổi họ, thật là không có tình có lý.
Nguyễn Văn Linh nói,
năm 1986, sau khi nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư ĐCSVN ông quyết tâm vượt qua mọi
sức cản, từng bước uốn nắn các sai lầm trước đây, khôi phục mối quan hệ hữu nghị
với Trung Quốc. Trước hết là thuyết phục Trung ương ĐCSVN kiến nghị Quốc hội
xóa bỏ các nội dung có liên quan chống Trung Quốc viết trong Hiến pháp. Tiếp đó
lại làm các công việc trên nhiều mặt, cuối cùng ra được quyết định rút quân
khỏi Campuchia. Nguyễn Văn Linh nói, trong tình hình quốc tế hiện nay, đối với
Việt Nam, việc xây dựng, phát triển tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác
với Trung Quốc, trung tâm XHCN kiên cường này, rõ ràng là một nhiệm vụ càng
quan trọng và bức thiết. Bởi vậy, ông có một nguyện vọng lớn nhất là thực hiện
được việc bình thường hóa mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vào trước Đại hội
VII ĐCSVN năm 1991. Đây sẽ là một việc lớn làm phấn chấn lòng người đối với
toàn đảng và toàn dân Việt Nam.
Về vấn đề Campuchia,
Nguyễn Văn Linh nói ông hiểu rõ tính chất quan trọng và bức thiết của việc giải
quyết vấn đề này. Lẽ ra hai bên Việt Nam và Trung Quốc thông qua con đường
ngoại giao để bàn bạc giải quyết vấn đề này là tốt nhất và suôn sẻ nhất. Nhưng
do Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ta nắm có ý đồ gây rối, hiện nay con
đường này rất khó đi. Vì vậy ông nghĩ bản thân ông phải đi Bắc Kinh trực tiếp
hội đàm với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng, cùng bàn bạc phương
án giải quyết tốt nhất. Nguyễn Văn Linh nói, trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Cơ
Thạch có quan điểm không nhất trí với phần lớn các Ủy viên Bộ Chính trị, ông ta
luôn luôn làm sai lệch công việc. Nguyễn Văn Linh còn nói, những cuộc gặp cá
nhân như cuộc gặp Đại sứ Trương hôm nay không nên quá nhiều. Nếu Tổng Bí thư
Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời ông và Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi Trung
Quốc thì đề nghị Đại sứ Trương trực tiếp đề xuất với Bộ Ngoại giao Việt Nam ý
định đồng thời gặp Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Chủ tịch Nhà nước Võ Chí Công,
trực diện chuyển ý kiến của người lãnh đạo Trung Quốc, làm như vậy sẽ ổn thỏa
hơn.
Đại sứ Trương cảm ơn
Nguyễn Văn Linh đã tiếp và tỏ ý sẽ lập tức báo cáo trong nước biết nội dung
cuộc nói chuyện của ông.
Gặp gỡ bí mật Thành Đô
Chiều 28 tháng 8 năm 1990, Sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Đại sứ Trương chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười tiến hành thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng đồng thời cùng đi. Hiện nay thời cơ giải quyết chính trị vấn đề Campuchia đã chín muồi, hai phía Trung Quốc – Việt Nam cần cùng nhau cố gắng xúc tiến giải quyết thật nhanh vấn đề này và sớm thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung – Việt. Do Á Vận Hội sắp sửa tiến hành tại Bắc Kinh, vì để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm sẽ thu xếp tại Thành Đô, Tứ Xuyên.
Chiều 28 tháng 8 năm 1990, Sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Đại sứ Trương chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười tiến hành thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng đồng thời cùng đi. Hiện nay thời cơ giải quyết chính trị vấn đề Campuchia đã chín muồi, hai phía Trung Quốc – Việt Nam cần cùng nhau cố gắng xúc tiến giải quyết thật nhanh vấn đề này và sớm thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung – Việt. Do Á Vận Hội sắp sửa tiến hành tại Bắc Kinh, vì để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm sẽ thu xếp tại Thành Đô, Tứ Xuyên.
Đại sứ Trương Đức Duy
lập tức họp hội nghị mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu tìm cách nhanh chóng
nhất chuyển thông tin quan trọng của trong nước tới Nguyễn Văn Linh. Nhờ đã có
kinh nghiệm lần trước nên lần này mọi người ít nhiều đã có chút vững tâm, quyết
định vẫn cứ để Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ với Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Thế là 8 giờ sáng ngày 29, một lần nữa Đại sứ Trương gặp Lê Đức Anh, đề nghị
ông giúp đỡ thu xếp để Đại sứ Trương trực tiếp báo cáo Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh biết thông tin quan trọng đến từ Bắc Kinh.
Một tiếng đồng hồ sau,
Trưởng phòng Vũ Tần thuộc Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam hẹn gặp Tùy viên
quân sự Triệu Nhuệ, chuyển đạt lời nhắn miệng của Lê Đức Anh nói Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh ấn định 4 giờ chiều hôm ấy sẽ cùng Chủ tịch Đỗ Mười tiếp Đại sứ
Trương. Để thể hiện cuộc hội kiến này được liên hệ qua kênh chính thức, Tổng Bí
thư kiến nghị Đại sứ quán Trung Quốc chính thức nêu yêu cầu với Ban Đối ngoại
Trung ương ĐCSVN, nói rằng Đại sứ Trương có việc khẩn cấp hy vọng được hội kiến
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các đồng chí lãnh đạo Việt Nam khác trong cùng
ngày. Căn cứ theo sự gợi ý của Nguyễn Văn Linh, 1 giờ chiều hôm đó Đại sứ
Trương đến gặp Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Trịnh Ngọc Thái nêu ra
yêu cầu nói trên.
Qua sự bố trí của Ban
Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hội kiến Đại
sứ Trương tại Phòng khách Trung ương ĐCSVN. Đại sứ Trương chuyển tới Nguyễn và
Đỗ ý kiến của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời hai đồng chí
thăm Trung Quốc nội bộ. Nguyễn và Đỗ đều rất vui mừng nhận lời mời, đồng ý với
thời gian và địa điểm cuộc gặp do phía Trung Quốc đề xuất và nói sẽ lập tức báo
cáo Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định danh sách nhân viên đi
theo và bắt tay làm công tác chuẩn bị. Nguyễn Văn Linh còn nói, nếu tình hình
sức khỏe cho phép thì đồng chí Phạm Văn Đồng cũng sẽ nhất định nhận lời mời
cùng đi. Sau khi về Sứ quán, Đại sứ Trương lập tức báo cáo trong nước biết tình
hình cuộc gặp chiều nay.
Ngày 30, trong nước
thông báo cho Sứ quán biết thu xếp lịch trình đại thể của lần gặp gỡ này, đó
là: sáng ngày 3 tháng 9, chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ trưa đến Thành
Đô, buổi chiều lãnh đạo hai bên hội đàm, buổi tối phía Trung Quốc mở tiệc chiêu
đãi. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp tục hội đàm, buổi chiều chuyên cơ Việt Nam rời
Thành Đô về nước. Sau khi thỉnh thị và được trong nước đồng ý, Đại sứ Trương sẽ
cùng đáp chuyến chuyên cơ Việt Nam đi Thành Đô và tham gia hội đàm.
Sáng ngày 3, tôi đi xe
của Đại sứ Trương đến sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, vừa để tiễn Đại sứ Trương
vừa cũng là để tiễn đoàn Nguyễn Văn Linh. Phía Việt Nam tất cả có 15 người đi
chuyến này, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng ra, các nhân viên
chủ yếu cùng đi còn có Chánh Văn phòng Trung ương ĐCSVN Hồng Hà (Ủy viên Trung
ương Đảng), Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Hoàng Bích Sơn (Uỷ viên Trung
ương Đảng), Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Đinh Nho Liêm (Uỷ viên Trung ương
Đảng), còn lại là các nhân viên công tác. Khi xe của Đại sứ Trương tới gần sân
bay thì thấy một xe con kiểu bình thường màu đen chạy sau xe chúng tôi, ngoảnh
lại nhìn, vì xe không treo màn cửa nên có thể thấy rõ người ngồi bên trong là
Nguyễn Văn Linh, bên cạnh người lái xe có một cán bộ bảo vệ. Có thể thấy Nguyễn
Văn Linh vẫn giữ tác phong giản dị như thế của Hồ Chí Minh. Xe chúng tôi lập
tức chạy chậm lại nhường đường cho xe Nguyễn Văn Linh. Tại sân bay không làm
bất kỳ nghi lễ tiễn đưa nào, đoàn Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trương lên máy bay
xong, chuyên cơ liền cất cánh.
Sau khi từ Thành Đô
trở về, Đại sứ Trương cho chúng tôi biết cuộc gặp lãnh đạo hai nước chủ yếu
thảo luận cách giải quyết chính trị vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ bình
thường Trung Quốc – Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, hai bên chú trọng bàn về
thành viên Ủy ban Tối cao cơ quan quyền lực lâm thời Campuchia [SNC], tức
phương án phân phối quyền lực sau khi Việt Nam rút quân. Phía Trung Quốc đề
xuất Ủy ban này gồm 13 thành viên, ngoài Sihanouk làm Chủ tịch ra, chính quyền
Phnompenh cử 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối gồm ba phái Campuchia Dân chủ
(tức Khmer Đỏ), Ranaridh và Son Sann mỗi phái 2 đại biểu, tổng cộng 6 đại biểu.
Nguyễn Văn Linh tỏ ý có thể tiếp thu phương án này của phía Trung Quốc; Đỗ Mười
cho rằng bản thân Sihanouk cũng thuộc lực lượng chống đối, như vậy tỷ lệ hai
bên là 6 so với 7, phía lực lượng chống đối nhiều hơn 1 ghế, dự đoán phía chính
quyền Phnom Penh khó tiếp thu phương án này; Phạm Văn Đồng thì nói phương án
của phía Trung Quốc đã không công bằng lại cũng không hợp lý. Cuối cùng phía
Việt Nam đồng ý dựa vào phương án của phía Trung Quốc để làm công tác thuyết
phục phía Phnom Penh.
Về mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, hai
bên đều có thái độ nhìn về phía trước, không rà lại các món nợ cũ. Lãnh đạo hai
nước đều đồng ý dựa theo tinh thần “Kết thúc quá khứ, mở ra tương lai”
viết một chương mới trong mối quan hệ Trung – Việt. Khi kết thúc cuộc gặp, lãnh
đạo hai nước đã ký kết “Biên bản Hội đàm”. Tổng Bí thư Giang Trạch Dân còn ý vị
sâu xa trích dẫn hai câu thơ của Giang Vĩnh, nhà thơ đời Thanh: “Độ tận kiếp
ba huynh đệ tại, tương kiến nhất tiếu mẫn ân cừu [tạm
dịch : Qua kiếp nạn, anh em còn đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”.
Tối hôm ấy Nguyễn Văn Linh xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh đệ chi giao số
đại truyền, oán hận khoảnh khắc hóa vân yên, tái tương phùng thời tiếu nhan
khai, thiên tải tình nghị hựu trùng kiến.”[3]
Để bảo đảm cuộc gặp
thành công, Tỉnh ủy Tứ Xuyên và Văn phòng Đối ngoại đã làm rất nhiều công việc
tổ chức và chuẩn bị. Nghe nói họ đã phải đưa đi nơi khác tất cả các khách trọ ở
nhà khách Kim Ngưu, để dành nơi này đón các vị khách Việt Nam ở trong hai ngày
hội đàm. Đồng thời hai bên Trung Quốc – Việt Nam thương lượng giữ bí mật về
cuộc hội đàm này, không phát bất cứ tin tức nào ra bên ngoài.
16 chữ vàng của mối quan hệ Trung Quốc
–Việt Nam
Một năm sau cuộc gặp Thành Đô, tháng 11 năm 1991, tân Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung Quốc – Việt Nam.
Một năm sau cuộc gặp Thành Đô, tháng 11 năm 1991, tân Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung Quốc – Việt Nam.
Tháng 2-1999 lãnh đạo Trung Quốc – Việt Nam
ra “Tuyên bố chung” xác định bộ khung phát triển mối quan hệ hai nước trong thế
kỷ mới, nói tóm tắt là 16 chữ “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai,
láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”. Các quan chức và học giả Việt Nam
nói đây là “16 chữ vàng”.
Tháng 7 và tháng 11
năm 2005, lãnh đạo cấp cao hai nước Trung Quốc – Việt Nam đi thăm lẫn nhau, làm
phong phú hơn nữa nội hàm của “16 chữ”, không ngừng nâng cao mối quan hệ láng
giềng hữu hảo và hợp tác toàn diện lên mức độ mới, khiến cho hai quốc gia và
nhân dân hai nước mãi mãi làm láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác
tốt, đánh dấu mối quan hệ ngoại giao hữu hảo Trung Quốc – Việt Nam được đẩy lên
một chặng đường mới.
Nguồn: Tạp chí Trung Quốc 《党史纵横》(Đảng sử tung hoành)[4] bản điện tử ngày 26-8-2014. Một bản của
bài viết có đăng trên mạng China.com.
GHI CHÚ:
[1] Tác giả bài viết này có lẽ là Lý Gia
Trung, từng 4 lần làm việc ở Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, lần cuối cùng
làm Đại sứ. Lý học tiếng Pháp tại Trung Quốc, tiếng Việt tại ĐH Tổng hợp Hà
Nội, là tác giả sách Hồ Chí Minh, một cuộc đời huyền thoại xuất
bản năm 2011 ở Trung Quốc (ND).
[2] Bệnh Meniere là một rối loạn ở tai trong, gây
ra chóng mặt và ù tai (ND).
[3] Chúng tôi đoán ông Nguyễn Văn Linh viết
4 câu này bằng tiếng Việt, đây chỉ là lời dịch của phía Trung Quốc “兄弟之交数代传,怨恨顷刻化云烟,再相逢时笑颜开,千载情谊又重建”. Dịch ngược lại tất nhiên không đúng
với nguyên văn tiếng Việt. Tạm dịch ý: Tình anh em truyền bao đời, trong khoảnh khắc mọi oán hận tan
thành mây khói, khi gặp nhau nở nụ cười, xây đắp lại tình hữu nghị muôn đời (ND).
[4] Tạp chí “Đảng sử tung hoành” ra đời năm
1988, do Phòng Nghiên cứu lịch sử đảng của Tỉnh ủy Liêu Ninh, Ban Tổ chức Tỉnh
ủy Liêu Ninh, Cục Lão cán bộ Tỉnh ủy Liêu Ninh phụ trách; tạp chí ra hàng
tháng, có tính chất tổng hợp và thông tục, được phát hành công khai cho bạn đọc
trong và ngoài Trung Quốc. (ND)