Đền Vua Đinh ở Hoa Lư - Ninh bình ngày nay
Năm Mậu Thìn (968) Vạn Thắng Vương lên ngôi
Hoàng Đế lấy hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa
Lư. Đinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan
võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc Công; Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân
(tổng chỉ huy quân đội) và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương.
Năm
Nhâm Thân (972), Vua Đinh đã sai con là Đinh Liễn mang đồ vật sang triều cống
nhà Tống. Để tránh một cuộc đụng độ không cần thiết với đế quốc phương Bắc này,
nhằm tranh thủ được thời gian hòa bình càng dài càng tốt giúp nhân dân ổn định
cuộc sống và xây dựng đất nước sau một thời gian dài chiến tranh loạn lạc.
Sau
đó Vua Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao chỉ Quận vương và phong
cho Nam Việt Vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. Từ đó
nước ta có lệ sang triều cống phương Bắc.
Sau
khi lo xong mặt ngoại giao, nhưng nhiều nơi trong nước lòng người vẫn chưa phục.
Để răn đe kẻ phản loạn, Vua Đinh đã đặt ra nhiều luật lệ nghiêm khắc để giữ yên
phép nước. Nhưng họa nội loạn lại bộc phát ngay trong hoàng tộc. Vua Tiên Hoàng
phế con trưởng là Nam Việt Vương Đinh Liễn, cho con út là Hạng Lang làm Thái tử.
Nam Việt Vương Đinh Liễn đã theo Tiên Hoàng đi trận mạc từ thuở hàn vi, lại
không được kế vị, tức giận, đã sai người giết Hạng Lang đi.
Năm
Kỷ Mão (979) Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn bị tên Đỗ Thích giết
chết. Nguyên Đỗ Thích vốn là một kẻ hầu cận của Vua, đêm nằm mơ thấy sao rơi
vào mồm, tưởng là điềm báo được làm Vua, bèn định bụng sát hại minh chủ. Một
hôm, hắn thấy vua Đinh say rượu nằm nghỉ trong cung bèn lẻn vào sát hại rồi tìm
giết luôn cả Đinh Liễn.
Triều thần đã tìm bắt được Đỗ Thích đem xử tội
và tôn Vệ Vương Đinh Toàn lên làm Vua (lúc này mới 6 tuổi).
Vua Đinh Tiên Hoàng có 5 bà Hoàng hậu
: Đan Gia (mẹ của Đinh Liễn), Trinh Ninh (mẹ của Hạng Lang), Kiểu Quốc (mẹ của
Đinh Tuệ), Cô Quốc (chỉ sinh con gái) và Ca Ông (mẹ của Đinh Toàn, ngày nay gọi
là Dương Vân Nga).
Nhưng
cổ sử chỉ nhắc đến 3 người con trai là : Đinh Liễn, Đinh Toàn và Đinh Hạng
Lang. Sau khi Đinh Liễn và Đinh Hạng Lang đã chết, thì mặc nhiên Đinh Toàn kế
nghiệp ngôi vua. Vua còn nhỏ nên mọi quyền bính được giao cho mẹ là Ca Ông hay
còn gọi là Dương Vân Nga làm nhiếp chính.
Sử ngày nay viết rằng : Dương Vân Nga thay con
cầm quyền trị nước, với cái thế các đại thần trong triều phân liệt, tranh chấp
gay gắt, có nguy cơ nội chiến. Ngoài biên ải, nhà Tống nghe tin Tiên Hoàng mất
muốn thừa thế sang lấy nước Đại Cồ Việt đã hội đại binh gần biên giới. Ở cái
thế vận mệnh quốc gia ngàn cân treo sợi tóc, cần phải có một người có đủ tài
thao lược và uy tín để gánh vác trọng trách này và người đó không ai khác là
Thập đạo tướng quân Lê Hoàn người đang là tổng chỉ huy quân đội.
Sử viết
rằng : “Dương Vân Nga đã lấy chiếc long
bào choàng lên vai Lê Hoàn trong tiếng reo hò dậy trời của ba quân tướng
sĩ….và…hành động của Dương Vân Nga đã biểu hiện thái độ chính trị sáng suốt của
một con người, thức thời, có tầm nhìn xa, trông rộng xứng đáng được coi là anh
hùng “.
Dưới góc nhìn của những nhà viết sử ngày
nay thì hành động của Dương Vân Nga là vì đại cuộc, vì đất nước, vì dân
tộc... Nhưng dưới góc nhìn của con cháu Nhà Đinh thì đây là một hành động phản
bội .
Tôi chỉ là một kẻ hậu sinh và không bao
giờ dám làm cái việc “phán xét tổ tiên”; nhưng chúng ta – con cháu Nhà Đinh, có
quyền biết đâu là sự thật của hành động này?
Ngày nay chúng ta học và đọc sử qua những bộ
sách chính sử của các triều đại trước để lại; để biết được tổ tiên ngày trước lập
quốc và bảo vệ đất nước như thế nào ? Chúng ta được dạy rằng học sử để yêu đất
nước hơn, để biết những chân lý những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và để
gìn giữ, bảo vệ cho các thế hệ sau. Nhưng
như nhà sử học Dương Trung Quốc nói : “Không phải cứ nói đến “chính sử” do những sử gia tên tuổi biên soạn đã là chân lý tuyệt đối. Bởi
trước hết, nó là sản phẩm của những cá thể hay triều đại, dù uyên thâm đến mấy
thì cũng vẫn có thể có sai sót và nhiều khi xuất phát từ những lợi ích không
thể gọi là tuyệt đối vì dân tộc mà căn bản là của giới cầm quyền.”.
Có nghĩa là “chính sử” cũng có thể đúng và cũng có thể sai; cái sự đúng
sai ở đây là tùy thuộc vào góc nhìn và kiến
thức của mỗi chúng ta ?
Sau một thời gian khá dài tìm kiếm qua sử sách
của cả cổ sử Trung Hoa và Việt Nam; cùng một số bài viết, các luận văn của các
học giả Trung Hoa đăng trên một số Tạp chí Quốc tế; nhất là gần đây tôi cũng
đọc được một số ý kiến phản biện của Thiền sư – Giáo sư Lê Mạnh Thát về lịch sử
thời Trung cổ của Việt Nam. Cá nhân tôi đã có một góc nhìn riêng về sự kiện
lịch sử này :
Trước
hết khi vua Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn bị sát hại năm Kỷ Mão (979),
Đinh Toàn lên ngôi hiệu là Phế Đế năm 980, khi nhà vua chỉ mới 6 tuổi. Các đại
thần nhà Đinh như Đinh quốc công Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp sau đó đã phát
hiện Lê Hoàn có hành vi tư thông với Dương Vân Nga để tiếm quyền thiếu đế. Các vị
đại thần này đã cử binh mã đến đánh Lê Hoàn nhằm ngăn cản việc này. Nhưng Lê
Hoàn với toàn bộ binh lực triều đình nắm trong tay và đã chuẩn bị sẳn đã nhân
dịp này giết sạch các đại thần. Và khi không còn ai ngăn cản thì quyền lực của
Vương Triều Nhà Đinh đương nhiên thuộc về Lê Hoàn.
Đây thật sự
là một cuộc đảo chánh không đổ máu lật đổ nhà
Đinh của Lê Hoàn. Và
chỉ năm sau ông lên làm vua - năm 980 (Canh Thìn), tiếp tục đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình ngày nay).
Về hành động mà các nhà viết sử ngày nay cho rằng “Dương Vân Nga đã lấy chiếc
long bào choàng lên vai Lê Hoàn trong tiếng reo hò dậy trời của ba quân tướng
sĩ…”. Theo tôi là có thể có và có thể không, vì hành động này (nếu có) đã
không còn ý nghĩa chính trị gì khi thật tế quyền lực của triều Đinh đã nằm
trong tay Lê Hoàn sau cuộc đảo chánh này. Triều đình Nhà Đinh mới thành lập và
đang trong giai đoạn trứng nước của thời kỳ lập quốc, giới hoàng tộc chưa hình
thành nên chưa thể là một cản trở trong việc tiếm quyền của Lê Hoàn được .
Các nhà viết sử ngày nay đã hư cấu và
đặt lên vai người phụ nữ trẻ mới 26 tuổi này quá nhiều trọng trách và quá nhiều
thứ “tầm” (như tầm nhìn xa trông rộng, tầm phán quyết…); một cách có thể nói là
quá đáng ? Những gì xảy ra sau đó như cổ sử đã ghi chép lại cho thấy nhận định
trên là chính xác; vì khi Lê Hoàn lên ngôi vua thì Dương Vân Nga chỉ trở thành
một bà vợ bình thường trong hậu cung nhiều bà vợ của Lê Hoàn và chìm dần vào quên lãng. Các bộ chính
sử lớn được viết trong tất cả các triều đại quân chủ sau đó đã hoàn toàn không
có một dòng nào nhắc đến nhân vật Dương Vân Nga.
Trong dân gian
vẫn có một số tư liệu viết về người phụ nữ này, nhưng không lấy gì làm đẹp đẽ
cho lắm; ví dụ....Đại Nam Quốc sử diễn ca - một tác phẩm chữ Nôm cũng có
đoạn:
"Nối sau Thiếu Đế thơ ngây ,
Lê Hoàn nhiếp chính từ rày dọc ngang
Tiếm xưng là Phó Quốc vương
Ra vào cùng ả họ Dương chung tình
Bặc, Điền vì nước liều mình
Trách sao Cự, Lạng tán thành mưu gian".
Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư, q.1, Kỷ nhà Đinh, tr.166 viết: " Vua
nhân gian dâm trong cung mà lấy được nước, về luân thường, đạo vợ chồng có
nhiều việc đáng thẹn". Theo
tác phẩm: "Truyền thuyết Hoa Lư" của Sở Văn hoá - Thông
tin Ninh Bình, 1996, tr.102, đã viết: " Hầu hết nội tộc họ Dương rời kinh đô Hoa Lư về Vân
Lung và quyết định đổi họ Dương thành họ Giang để không công nhận Dương Vân Nga
còn thuộc họ tộc nữa "....
là đã quá đủ để chúng ta có thể biết đâu là sự thật.
Cho đến
mấy trăm năm sau, thời Hậu Lê có chuyện: Tại Hoa Lư có đền thờ chung Đinh Tiên
Hoàng, Lê Đại Hành và Dương Vân Nga. Khi tế tự đón rước nhân dân vẫn đặt tượng
Đinh Tiên Hoàng, Dương Vân Nga, Lê Hoàn vào một cỗ kiệu chung. Nhưng khi An phủ
sứ Lê Thúc Hiển nổi tiếng cương trực, phụng mệnh vua Lê về Hoa Lư làm quốc lễ,
thấy vậy bèn sai buộc một dây vải trắng vào tay tượng Dương Vân Nga và đưa sang
đền thờ Lê Hoàn.
Dĩ nhiên tình hình nội bộ đang xáo trộn vì
chuyện đổi ngôi vua của Đại Cồ Việt không thể qua mắt được nhà Tống của Trung
Hoa vốn xem Đại Cồ Việt của chúng ta như là một nước phiên thuộc của họ. Tống
Thái Tông (trị vì 976-997) sai sứ đem thư qua khuyến dụ và đe dọa trừng trị
việc tiếm ngôi của Lê Hoàn. Lê Hoàn (trị vì 980-1005) vẫn khéo léo lấy
danh nghĩa con của vua Đinh Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Toàn, xin nhà Tống cho
nối ngôi vua cha. Tuy nhiên triều đình nhà Tống nắm rõ tình thế nước Nam,
biết Lê Hoàn đã giành ngôi của Đinh Toàn, con của Đinh Tiên Hoàng, nên sai
người đem một thư khác qua nói rằng “…Họ
Đinh truyền nối được ba đời (ý chỉ Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Đinh Toàn), trẫm
muốn cho Đinh Toàn làm thống súy, khanh (chỉ Lê Hoàn) thì làm phó. Nếu
Đinh Toàn không đáng tướng tài, hãy còn tính khí trẻ con thì nên cho ngay mẹ
con và thân thuộc y sang đây…”
Lê Hoàn biết không thể tiếp tục thương lượng,
nên chỉ còn con đường duy nhất là chuẩn bị lực lượng để kháng Tống. Quân Tống sau
đó đã chia làm hai đường thủy bộ tiến vào nước ta năm 981 (Tân Tỵ). Đường
bộ do Hầu Nhân Bảo cùng Tôn Toàn Hưng tiến theo ngả Lạng Sơn, còn đường thủy do
Trần Khâm Tộ và Lưu Trừng từ mặt biển tiến vào bằng đường sông Bạch Đằng.
Trên đường bộ, Hầu Nhân Bảo tiến đến Chi
Lăng (Lạng Sơn), trúng phải kế trá hàng, lọt vào vùng phục kích của quân Việt,
và bị bắt giết. Quân Việt phản công mạnh mẽ, quân Tống thiệt hại nặng, hai bộ
tướng của Hầu Nhân Bảo là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị bắt. Sau
trận Chi Lăng, các lực lượng thủy bộ của nhà Tống đều rút lui.
Tuy chiến thắng, Lê Hoàn vẫn phải sai sứ,
dưới danh nghĩa của vua Phế Đế (Đinh Toàn), sang nhà Tống năm 982 (Nhâm Ngọ)
xin trả lại hai tướng đã bắt được, và xin triều cống. Nhà Tống chỉ phong
cho Lê Hoàn làm Tiết độ sứ.
Mãi
đến hơn 10 năm sau vào năm 993 (Quý Tỵ), Lê Hoàn mới sai sứ giả sang Trung Hoa trình
bày với vua Tống rằng Đinh Toàn quyết định nhường ngôi cho mình. Tống Thái
Tông biết việc Lê Hoàn nắm quyền đã lâu, nhưng không có cách gì khác hơn,
nên sai sứ sang phong Lê Hoàn làm Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ Giao Chỉ Quận Vương
(vua Giao Chỉ).
Vậy theo sử Trung Hoa thời nhà Tống (960-1279),
thì Lê Hoàn chỉ làm vua từ năm Quý Tỵ (993) tới khi mất là năm Ất Tỵ (1005); và
từ năm 979 tới năm 992 trên danh nghĩa ông vẫn chỉ là một tôi thần của Vua Đinh
Phế Đế (Đinh Toàn). Và triều Đinh tồn tại từ năm 968 cho tới năm 993(tức là 25
năm); chứ không phải chỉ 12 năm (968 – 980) như sử ngày nay viết lại ?
Nhưng
theo sử Việt thì “ Đinh Toàn (sinh năm
974) nhường ngôi lại cho Lê Hoàn năm 980, được mẹ là bà Dương Vân Nga (lúc này
trở thành Hoàng hậu của triều Lê), và Lê Hoàn nuôi nấng cho đến lúc trưởng
thành. Sau được phong tước vương gọi là Vệ Vương, ông hy sinh
năm 1001(năm 27 tuổi) khi đang cùng vua Lê (Lê Hoàn) đánh dẹp giặc Man Cử Long”.
Theo văn hóa Á đông, nhất là văn hóa
và hệ tư tưởng của các dân tộc như Trung Hoa và Việt Nam thì khi một
triều đại quân chủ mới lên ngôi, nắm quyền sinh sát thiên hạ trong tay, thì
việc đầu tiên của triều mới là tìm mọi cách tiêu diệt sạch hoàng tộc và đại
thần của triều cũ. Tục có câu “diệt cỏ phải diệt cho tận gốc”; dù cho các cuộc
chuyển giao quyền lực này có diễn ra trong hòa bình, nhưng hầu như không bao
giờ thoát khỏi quy luật khắc nghiệt này.
Nhưng tại sao vua Đinh Phế Đế (Đinh Toàn) lại
thoát khỏi quy luật này và sống tới năm 27 tuổi mới mất ?
Trước đây nhiều năm, khi đọc đến đoạn sử liệu này của chính
sử, tôi đã có thái độ hoài nghi và cho rằng các nhà sử học chép không đúng sự
thật ? Nhưng không biết phải hiểu như thế nào cho đúng vì không tìm thấy tư
liệu nào phản biện lại dữ liệu này của các nhà viết sử; gần đây tôi mới tìm
thấy một số tư liệu trả lời cho câu hỏi này ? Tuy chỉ là một phần sự thật,
nhưng đã có thể giúp bà con họ Đinh hiểu được một sự thật của lịch sử dòng Họ
chúng ta .
Như trình bày trên đây ! cuộc đảo chánh lật đổ
Nhà Đinh của Lê Hoàn đã gặp sự phản đối quyết liệt của nhà Tống; để tránh một
cuộc đối đầu trực tiếp với nhà Tống quá mạnh, dưới danh nghĩa bảo vệ Nhà Đinh.
Lê Hoàn đã phải sử dụng hình tượng vua Đinh Phế Đế, tránh con mắt dòm ngó của
các sứ thần nhà Tống. Nhiều năm sau khi tiếm ngôi Nhà Đinh (980), Lê Hoàn vẫn tự
xưng là một tôi thần của Nhà Đinh; một quan đại thần trung liệt đang phò thiếu
đế. Được nhà Tống xem như là cấp phó của Vua Đinh Phế Đế và chỉ được nhà Tống phong làm Tiết độ sứ.
Mãi tới
13 năm sau vào năm 993 (Quý Tỵ), sau nhiều cuộc tiếp xúc ngoại giao khéo léo Lê
Hoàn mới được Tống Thái Tông sai sứ sang phong Lê Hoàn làm Tĩnh Hải Quân
Tiết độ sứ Giao Chỉ Quận Vương (vua Giao Chỉ).
Và như lịch sử đã ghi nhận với nhiều trường hợp tương tự; khi hình
tượng của Vệ vương Đinh Toàn không còn giá trị lợi dụng và nhà Vua mới đã được
“Thiên triều” phong vương, thì nhà vua cũ sẽ “phải” hy sinh khi đang làm làm
nhiệm vụ - “ông hy sinh năm 1001(năm 27 tuổi) khi đang cùng vua Lê (Lê Hoàn)
đánh dẹp giặc Man Cử Long” . Vâng sử ta viết rất hay, khi không làm buồn lòng
ai cả ?
Vậy
trước sự thật lịch sử này, chúng ta phải hiểu như thế nào là “chính sử” cho đúng trong
trường hợp này ?
ĐKT
12.01.2013
Tài liệu
tham khảo
1. Hà Thiên Niên, “Lược thuật về thư tịch cổ Trung Quốc qua các thời đại viết về Việt Nam”,
in trong “Học báo nhân học Đại học sư
phạm Tây Nam”, Khoa học Xã hội nhân văn, số 11/2002, tr. 129-133.
2. Trương Tú Dân, “An Nam thư mục đề yếu”, Tập san Thư viện Bắc Kinh, số 1/1996.
3. Minh sử, quyển 321 “Liệt truyện” thứ 209, phần 2 “Ngoại quốc” – “An Nam”
4. Nghiêm Tòng Giản (đời Minh), “Thi vực châu tư lục”, quyển 5, “An Nam”.
5. Trịnh Tủng (đời Tống), “An Nam kỷ lược” ; “Tống sử”, quyển 488, Liệt
truyện thứ 247.
6. Lý Tiên Căn (đời Thanh), “An Nam tạp ký”.
7. La Viết Quýnh, “Hàm Tân Lục” Nam Di Chí, quyển 6,
8. “ Đại
Nam Nhất Thống Chí ” bộ dịch của Tụ Trai Nguyễn Tạo, Bộ Quốc gia giáo dục,
Sài Gòn
ấn hành năm 1961.
9. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư,
của Ngô Sỹ Liên, bản dịch của Viện Sử Học, xuất bản năm 1971- 1973
( 25 quyển).
10. Việt sử thông giám
cương mục.
11. Đại Việt địa dư toàn
biên.
12. Đại Việt sử lược,
khuyết danh, gồm 03 quyển
13. Đại cương Lịch sử Việt
Nam, NXB Giáo dục.
14. Việt Nam Sử Lược, của
Trần Trọng Kim, nhà xuất bản Hà Nội ấn hành năm 1999.
15. Lịch sử Việt Nam tập 1,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội năm 1971.
16. Các Triều đại Việt Nam
của Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng, NXB Thanh Niên, 2010.
17. Tóm tắt niên biểu lịch
sử Việt Nam, của Hà Văn Thư – Trần Hồng Đức, nhà xuất bản Văn hóa
Thông tin , năm 2010.
18. Từ điển Nhân vật Lịch
sử Việt Nam của Nguyễn Quỳnh Thắng – Nguyễn Bá Thế.
19. Sử ký Tư mã thiên, Phan
Ngọc dịch, NXB Văn hóa Thông tin,
1999.
20. Lịch sử Thế giới của
Nguyễn Hiến Lê - Thiên Giang, NXB Văn
hóa Thông tin, 1998.
21. Sử Trung Quốc của
Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn hóa Thông tin, 1996.
22. Trung Quốc sử lược
của Phan Khoang, NXB Văn hòa – Thông tin, Hà Nội năm 2002.
23. Lịch sử văn minh Trung
Quốc của Will Durant, Nguyễn Hiến Lê dịch, NXB Văn hóa Thông tin, 2004.
24. Sử Phật giáo thế giới,
tập 1: Ấn Độ - Trung quốc ; tập 2: Phật Giáo Tích Lan, Myanmar, Thái Lan, Laos, Campuchia của thiền
sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh.
25. Lịch sử Phật giáo
Trung Quốc, của Viên Trí, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
26. Các bộ phái Phật giáo
Tiểu thừa của André Bareau; Pháp Hiền dịch, NXB Tôn giáo, 2003.
27. Lịch sử Phật giáo Việt
Nam , của GS. Lê Mạnh Thát, Tập I,II,III NXB Thuận Hóa, 1999-2001.
28. Việt Nam Văn hóa Sử cương của Đào Duy Anh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh 1992.
29.
Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam, tập 1+2+3 của Nguyễn Khắc Thuần, nhà xuất bản giáo dục,
1997.
---------------------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét