Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa
LÀNG ( Hán – Việt gọi
là xã) là một đơn vị cư trú
và một hình thức tổ chức xã hội quan
trọng của nông thôn Việt Nam xưa kia và hiện nay.
Suốt nhiều thế kỷ, làng là đơn vị tụ cư cổ truyền lâu đời
ở nông thôn người Việt và là nhân tố cơ sở cho hệ thống nhà nước quân chủ tại
Việt Nam.
Làng truyền thống điển hình thời trung và
cận đại là một tập hợp những người có thể có cùng huyết thống, cùng phương kế
sinh nhai trên một vùng nhất định. Làng ̣được xem có tính tự trị, khép kín, độc
lập, là một vương quốc nhỏ trong vương quốc lớn nên mới có câu "Hương
đảng, tiểu triều đình".
Trước đây, trên làng(xã) là tổng, huyện, châu, phủ, lộ, đạo; dưới làng là thôn, ấp,
xóm... tùy theo từng thời kỳ. Ngày nay, tổ chức trên làng (thôn, ấp) là xã, huyện, tỉnh, quốc gia;
tổ chức dưới làng có xóm.
Thời nhà Hậu Lê, trong mỗi làng quê Việt
Nam chủ yếu có ba cơ quan chính: cơ quan nghị quyết, cơ quan chấp hành, và cơ
quan trị an.
Theo đó : Hội đồng kỳ dịch là cơ
quan nghị quyết, có Hương trưởng (sau gọi là tiên chỉ) đứng
đầu. Hương mục lãnh trách nhiệm trông coi tài sản công tư của
xã. Trị an, tự vệ thì giao cho Trùm trưởng (sau gọi là tuần
đinh). Hương mục và Trùm trưởng cũng là thành viên của hội đồng Kỳ dịch.
Hội đồng Kỳ dịch thường là các hương hào
danh tiếng có phẩm hàm, học thức, hoặc là hưu quan trong xã. Điều kiện vào hội
đồng không nhất định mà tùy theo Hương ước của làng. Có làng xét
ngôi thứ trong hội đồng theo "thiên tước" tức là ai cao tuổi nhất thì
là tiên chỉ. Có làng xét theo "nhân tước" và ai đỗ cao
nhất hay có phẩm hàm cao nhất thì ngồi chiếu tiên chỉ.
Hội đồng kỳ dịch
thường nhóm họp một tháng hai lần vào ngày mồng một(sóc) và ngày rằm (vọng) sau khi tổ chức lễ Thành
hoàng ở đình.
Theo
đó làng (xã) Việt Nam ở Trung và Bắc Bộ vẫn
hoạt động không mấy thay đổi từ xa xưa cho đến năm 1921 thì người Pháp
ra lệnh bãi bỏ Hội đồng kỳ dịch và thay thế vào đó là HỘI ĐỒNG TỘC BIỄU, còn gọi là Hội
đồng hương chính. Với sự cải tổ này chính quyền Pháp muốn áp dụng một khía
cạnh dân chủ bằng cách cho dân đinh 18 tuổi trở lên đi bầu bỏ
phiếu cho những đại biểu thành viên trong Hội đồng. Ứng cử viên tối thiểu phải
25 tuổi và sở hữu tài sản trong làng. Mỗi làng được có tối đa 20 đại biểu đại
diện cho những tộc Họ trong làng.
Đại biểu trong Hội đồng hương chính sẽ
chọn một người làm Chánh Hương hội và một người làm phó hương hội, thay thế cho
tiên chỉ và thứ chỉ trước kia. Ngoài ra còn có những hương chức khác như phó
lý, thư ký và thủ quỹ. Hội đồng hương chính áp dụng được
6 năm, đến năm 1927 thì
phải bỏ vì sự phản đối của nhân dân trong các làng quê vốn ủng hộ lệ làng cổ
truyền. Người Pháp phải thích ứng bằng cách cho lập lại Hội đồng kỳ mục để
cùng điều hành việc làng với hội đồng hương chính. Theo đó thì số kỳ mục không
hạn chế và nhiệm kỳ cũng không hạn định.
Năm 1941 cả hai hội đồng
kỳ mục và hội đồng hương chính bị bãi bỏ và một hội đồng duy nhất được lập
ra: Hội đồng kỳ hào. Tuy nhiên thay vì theo truyền thống thì lý
trưởng do dân làng bầu ra, lý trưởng và những hương chức chấp hành kể từ năm
1941 là do hội đồng kỳ hào quyết đoán cả nên tính cách dân chủ cổ truyền đã mất
đi.
THAY LỜI KẾT:
Bài viết ngắn này như là một lời góp ý nhẹ nhàng và chân thành nhất với các
bà con của các Dòng Tộc họ Đinh tại các tỉnh khu vực miền Trung. Hiện nay tại
một số tỉnh thành trong khu vực đã và đang hình thành các tổ chức của dòng Họ mình. Một số thì mới trong giai đoạn
thành lập Ban Liên Lạc để kết nối dòng họ về một mối, nhưng cũng có một số tỉnh
thì đã tiến tới giai đoạn thành lập Hội đồng Bổn tộc. Nhưng tiếc rằng bà con ta
đã không nghiên cứu thật kỷ lại các danh xưng trong trường hợp này, mà đã đặt
tên cho tổ chức của dòng họ mình là Hội đồng Tộc biểu – như thế nào là Hội đồng
tộc biểu thì như trên đây tôi đã diễn giải.
Thật ra đây là danh xưng để chỉ một tổ chức gồm đại diện của các dòng họ
trong một làng (xã) ngày xưa (trước năm 1927) trong các làng quê VN. Hiện nay
danh xưng này vẫn đang được dùng trong rất nhiều ngôi làng tại Huế (như làng Mỹ
Lợi, làng Phước tích, làng Phụng chánh…), để chỉ một hội đồng gồm có đại diện
của tất cả các tộc họ đang điều hành việc làng của các ngôi làng.
Trước đây việc lập một tổ chức để điều hành việc Họ là hoàn toàn không
có và hoàn toàn bị lệ làng ngăn cấm và pháp luật nhà nước phong kiến không thừa
nhận ; vì xưa kia theo quan niệm “họ trong hàng” tức là ông cha nói gì con cháu
phải nghe theo. Và việc họ là do Trưởng họ và các bậc trưởng lão trong tộc họ
quyết định miễn bàn cãi.
Nhưng tới năm Bính Dần (1926) Hoàng đế Bảo Đại hồi loan chấp chính. Ông
đã cho ban hành một số cải cách trong bộ máy làng (xã); từ bộ máy hành chính
cho tới một số phong tục tập quán, trong đó ông đã cho phép và khuyến khích
trong các tộc Họ thành lập một Ban để lo việc họ - gọi là HỘI ĐỒNG BỔN TỘC, gồm
những người có học hành nhiều chữ nghĩa, những người có kiến thức Tây học,
những người có địa vị xã hội, những người giàu có… và một số bậc cha chú nhưng
phải có văn hóa. Ông cũng ban hành một ước lệ (quy chế) cho việc tổ chức và
hoạt động của cái Hội Đồng Bổn tộc này. Mục đích là nhằm mở mang và phát triển
các dòng Họ vượt ra khỏi lũy tre làng; thoát khỏi những hủ tục xưa cũ kìm hãm
sự phát triển của xã hội VN.
Ở trong cái danh xưng HỘI ĐỒNG BỔN TỘC này bà con nên chú ý từ BỔN – tức
là BẢN (bản ngã, người chủ, chúng tôi, của ta, tôi, mình…) đây là một từ Hán –
Nôm cổ chỉ cái riêng tư . Tức là Hội đồng Bổn tộc là một cái Hội Đồng riêng của
một dòng Họ .
ĐKT
27.01.2014
Lưu
trữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét