Ảnh: Uỷ ban
Quân quản Sài Gòn – Gia Định tổ chức họp báo quốc tế ngày 8/5/1975.
Nguồn: Herve GLOAGUEN/Gamma-Rapho via Getty Images.
Nguồn: Herve GLOAGUEN/Gamma-Rapho via Getty Images.
Một cách khách
quan, để nhận định một cuộc chiến diễn ra dưới cơ chế là một cuộc xung đột nội
địa hay quốc tế, trước tiên phải xác định được danh nghĩa pháp lý của các bên
tham gia, mà cụ thể hơn, họ có được xem là quốc gia (“state”) theo quy định của
pháp luật quốc tế hay không?
Ảnh: Vĩ tuyến 17 chia cắt Việt Nam làm hai miền. Ảnh: BBC.
Sự công nhận của cộng đồng quốc tế không quan trọng?
Pháp luật quốc tế vẫn chưa có một định nghĩa hay tiêu chuẩn
chính thức để xác định danh tính quốc gia. Cho đến nay, quốc gia, các tổ chức
và các học giả quốc tế đều dựa vào 4 tiêu chuẩn từ Điều ước Montevideo
về Quyền và trách nhiệm của Quốc gia, ký kết vào năm 1933.
Đây vốn chỉ là một điều ước khu vực giữa các quốc gia thuộc
Châu Mỹ lục địa. Tuy nhiên, theo cân nhắc của nhiều học giả, các tổ chức học
thuật có thẩm quyền (như International Law Association hay International
Law Commission) và thực hành của nhiều quốc gia khác nhau; bốn tiêu chuẩn
này thật sự chỉ pháp điển hoá tập quán pháp quốc tế. Vì vậy, chúng được xem là
căn cứ hợp pháp để xác định tư cách quốc gia.
Bốn tiêu chuẩn được ghi nhận gồm:
1) Lãnh thổ xác định.
2) Dân cư xác định (cả hai tiêu chuẩn này không cần thiết
phải tuân thủ theo một số lượng cụ thể).
3) Chính phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả.
4) Năng lực tham gia vào điều ước với quốc gia khác.
Có ba điểm cần chú ý
trong bộ tiêu chuẩn nói trên.
Một là, khái niệm dân cư không đồng
nghĩa với việc nó phải thuộc một nhóm dân tộc, màu da hay tôn giáo nhất định.
Theo đó, một quốc gia không nhất thiết chỉ có dân cư thuộc một nhóm dân tộc,
màu da hay tôn giáo. Ngược lại, không nhất thiết hai nhóm dân cư cùng thuộc một
dân tộc, màu da hay tôn giáo thì phải cùng một quốc gia với nhau.
Hai là, dù chính phủ có năng lực
kiểm soát hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hình thành quốc
gia, điều này không nên được hiểu đồng nghĩa với việc chính phủ, chính quyền
đương thời tương đồng với sự tồn tại của chính quốc gia đó. Ta có thể hiểu rõ
hơn vấn đề này thông qua vài ví dụ như Somalia, Palestine, và Đài Loan.
Somalia tính cho đến nay, có thể đã được xem là “failed
state” – “một quốc gia thất bại”, nơi mà chính quyền trung ương biến mất (hoặc
không đủ năng lực kiểm soát quốc gia) và được thay thế bởi chủ nghĩa bộ tộc và
lãnh chúa địa phương. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là quốc gia Somalia
không còn tồn tại và ai cũng có thể xâm chiếm vùng lãnh thổ nói trên.
Tương tự, có thể nói rằng Palestine vẫn chưa có được một
chính phủ hiệu quả thống nhất lãnh đạo. Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) được
xem là một đại diện lý tưởng cho Palestine, nhưng tranh chấp bạo lực giữa các
phe phái như Hamas hay Fatah vẫn còn đó. Mặc dù vậy, việc không có một chính
phủ hiệu quả đại diện cho nhóm dân cư này cũng không đồng nghĩa với việc quốc
gia Palestine không tồn tại.
Đài Loan, xét mọi mặt, ở một mức độ mạnh mẽ và rõ ràng hơn,
có thể xem là một quốc gia độc lập – đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Montevideo.
Tuy nhiên, Đài Loan cũng đang đẩy mình vào thế khó theo mặt pháp lý,
tương đương với miền Nam Việt Nam mà bài viết sẽ phân tích ở phần sau.
Ba là, dù yêu cầu thứ tư có nhắc
đến việc tham gia vào điều ước quốc tế với quốc gia khác, điều này không đồng
nghĩa với việc chính phủ đó phải được cộng đồng quốc tế công nhận. Yêu cầu này
nhằm nói đến quyền hạn và năng lực thực thi điều ước nếu được ký kết, không
phải nhằm ám chỉ rằng quốc gia đó phải được cộng đồng quốc tế chấp nhận. Hiển
nhiên, điều này cũng chỉ mang tính tương đối.
Nhiều học giả đã và đang cân nhắc sức nặng của yếu tố cộng
đồng quốc tế, hay cụ thể nhất là việc được tiếp nhận trở thành thành viên của
Liên Hiệp Quốc (United Nations – UN). Trên thực tế, được UN hay các cường quốc
công nhận là một bước đệm quan trọng, nhưng sự đồng thuận chung của cộng đồng
học thuật thế giới và các tổ chức học thuật có thẩm quyền thì đây không phải,
và không nên là một yêu cầu bắt buộc.
Một dân tộc – hai quốc gia? Khả dĩ.
Với những thông tin như trên, chúng ta có thể tập hợp lại và
tạo nên một bức tranh chung về “statehood” của hai miền Nam Bắc Việt Nam.
Trước tiên, có đủ căn cứ và cơ sở để cho rằng tồn tại hai
quốc gia tách biệt trên lãnh thổ Việt Nam từ năm 1955 cho đến năm 1975.
Cả hai quốc gia đều có lãnh thổ và dân cư xác định, có chính
phủ có năng lực kiểm soát hiệu quả; đều từng tham gia vào các hiệp ước, hiệp
định quốc tế.
Vì vậy, dù chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các đồng
minh có tuyên bố chính phủ Việt Nam Cộng hòa là ngụy quân, ngụy quyền, bù nhìn
của Mỹ; hay ngược lại, dù chính quyền Việt Nam Cộng hòa có lên án chính quyền
miền Bắc là quân cờ của Cộng sản, quên lịch sử cha ông… thì cũng không làm thay
đổi danh tính pháp lý của họ theo quy chuẩn pháp luật quốc tế.
Tuy nhiên, cách nhìn
nhận này cũng không hẳn là hoàn toàn không có kẽ hở.
Đầu tiên, cả hai quốc gia đều cho rằng mình là đại diện hợp
pháp cho toàn Việt Nam; tương tự như vấn đề “Một Trung Quốc ” (One China)
giữa Đài Loan và Trung Quốc hiện tại. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tranh
chấp hai miền mang dáng dấp của một cuộc nội chiến hơn là tranh chấp liên quốc
gia. Tuy nhiên, theo người viết, điều này không làm mất đi bản chất nhà nước
của hai quốc gia theo tiêu chuẩn của Montevideo.
Thứ hai, phải tính đến luận điểm cho rằng Ngô Đình Diệm,
chính quyền Bảo Đại và Hoa Kỳ đã không tôn trọng Hiệp định Geneva và không tuân
thủ việc thi hành cuộc tổng tuyển cử 1956 như dự định.
Nhưng nếu cho rằng Hiệp định Geneva giải quyết được vấn đề
Việt Nam thì cũng không tôn trọng quyền dân tộc tự quyết (self-determination)
của một bộ phận người dân Việt Nam, quy định tại Khoản 2, Điều 1, Hiến chương
Liên Hiệp Quốc. Đặc biệt, bối cảnh pháp lý của hai chính quyền tồn tại song
song ở thời điểm này tương đối phức tạp.
Tính chính danh của chính phủ VNDCCH chủ yếu dựa vào cuộc
tổng tuyển cử năm 1946. Tính chính danh này càng được tăng cường hơn sau khi
vua Bảo Đại chính thức thoái vị và trao lại ấn tín, quốc bảo của hoàng triều
Nguyễn cho đại diện chính Phủ VNDCCH Trần Huy Liệu ngày 25/8/1945.
Tuy nhiên, với Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt ngày 6/3/1946, được
ký kết giữa ông Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp, và ông Hồ Chí
Minh cùng ông Vũ Hồng Khanh, đại diện chính phủ VNDCCH; VNDCCH chỉ còn lại phía
Bắc Việt Nam (và vẫn thuộc khối Liên hiệp Pháp), miền Nam Việt Nam vẫn thuộc
nhà nước Cộng Hòa Pháp với lời hứa hẹn cho một cuộc trưng cầu dân ý – thống
nhất với VNDCCH trong tương lai. Ngày 1 tháng 6 cùng năm, người Pháp thành lập
Nam Kỳ Quốc đặt thủ phủ tại Sài Gòn.
Trong giai đoạn từ 1946 đến 1949, sự cứng đầu của cựu vương
tân Quốc trưởng Bảo Đại đối với các đại biểu Pháp cũng đã giúp Quốc Gia Việt
Nam thành lập với cơ sở của Hiệp ước Elysée (8/3/1949). Trải qua nhiều biến cố
với cuộc “đảo chính bằng phiếu” của ông Ngô Đình Diệm, chính quyền Quốc gia
Việt Nam cũng có nền tảng pháp lý khá tương đồng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.
Vì vậy, việc Cộng hòa Pháp tự tiếp tục cho mình toàn quyền
sắp đặt ngày tổng tuyển cử với Hiệp định Geneva là can dự vào nội bộ Việt Nam,
một việc làm không thỏa đáng, đặc biệt khi hai bên duy nhất chấp nhận ký kết
hiệp định chỉ có chính phủ kháng chiến của VNDCCH và nhà nước Cộng hòa Pháp,
còn chính phủ Bảo Đại và Hoa Kỳ đều phản đối Hiệp định.
Lời kết
Với tất cả các thông tin nói trên, cân nhắc nền tảng pháp lý
tương đồng, năng lực quản lý tương đương, có đầy đủ lý do (theo công pháp quốc
tế) để cho rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa là hai thực thể
nhà nước hoàn toàn độc lập.
Vậy nên, hành vi dùng vũ lực quân sự để tước đoạt chính
quyền, lãnh thổ của một quốc gia khác, theo định nghĩa của Điều 1, Nghị quyết
3314 năm 1974 của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, là hành vi xâm lược theo công
pháp quốc tế./.
Tác giả: NGUYỄN QUỐC TẤN TRUNG
Nguồn: http://luatkhoa.info/2017/04/1954-1975-
Tài liệu tham khảo:
Toàn văn Hiến chương Liên Hiệp Quốc
Toàn văn Nghị quyết 3314 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc
Thomas D. Grant; Defining Statehood: The Montevideo Convention and its Discontents (Columbia Journal of Transnational Law, 1999)
James Crawford; The Creation of State of Palestine: Too much too soon?(EJIL, 1990)
A Vietnam War Timeline
Vua Bảo Đại (Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy) – Lịch sử Việt Nam
Toàn văn Nghị quyết 3314 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc
Thomas D. Grant; Defining Statehood: The Montevideo Convention and its Discontents (Columbia Journal of Transnational Law, 1999)
James Crawford; The Creation of State of Palestine: Too much too soon?(EJIL, 1990)
A Vietnam War Timeline
Vua Bảo Đại (Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy) – Lịch sử Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét