TỤC THỜ THẦN THÀNH HOÀNG TRONG CÁC LÀNG QUÊ XỨ HUẾ

Miếu thờ Thành Hoàng của làng Phước Tích - Huế


Thần Thành Hoàng được người Việt xem như một vị thần hộ mệnh, có công che chở bảo vệ cho con dân trong làng. Vì vậy, tất cả các làng xã người Việt xưa đều có một vị Thành Hoàng riêng cho làng mình, có thể cùng một vị Thành Hoàng nhưng qua mỗi vùng, miền lại có những câu chuyện, những sự tích khác nhau làm tô thêm sự trang nghiêm, linh ứng cho thần. Chính vì vậy, khi cư dân Việt di cư vào Nam đã mang theo những nét đặc trưng đó và đã có một số thay đổi cho thích hợp với một vùng đất và một nền văn hóa mới.
Vùng đất Thuận Hóa xưa và TT - Huế hiện nay; trong tiến trình lịch sử, tuy có một vài sự khác biệt giữa các nguồn sử liệu, song tất cả đều đồng tình với khẳng định vùng đất này trong những thế kỷ đầu Công Nguyên thuộc huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam thời thuộc Hán. Từ năm 192 sau Công Nguyên vùng đất này thuộc địa bàn nước Lâm Ấp và sau đó là vương quốc Champa kéo dài gần 12 thế kỷ. Sau khi nhà Đinh thành lập năm Mậu Thìn (968 – SCN) nước Đại Cồ Việt, nhà nước tập quyền đầu tiên của Việt Nam ra đời; biên giới Đại Việt mở rộng dần về phía Nam. 
Năm 1306, vua Trần Anh Tông gả Huyền Trân Công chúa cho Vua Chế Mân của nước Champa để đổi lấy hai châu Ô – Rí (Lý). Năm sau vua Trần cho đổi thành châu Thuận và châu Hóa, đưa quan quân vào cai trị. Nhà Trần đã đắp thành Hóa Châu làm trị sở của châu Hóa. Phải sau hơn hai thế kỷ mở mang khai khẩn, đến giữa thế kỷ thứ XVI, vùng đất Thuận Hóa mới trở thành một trung tâm chính trị và kinh tế mới của phương Nam.

Tới thời Nhà Nguyễn, chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa lập nghiệp từ tháng 1 năm 1570, nhưng ông lập dinh và sinh sống chủ yếu là ở Quảng Trị chứ không phải ở Huế. Tới khi mất năm 1613, mộ của ông cũng táng ở vùng núi Thạch Hãn, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong, Quảng Trị. Năm 1626, để chuẩn bị cho cuộc chiến chống lại quân Trịnh, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên dời dinh từ Quảng Trị vào làng Phước Yên (Phúc An) thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên ngày nay và đổi dinh làm Phủ. Mãi cho tới năm 1636, một người cháu nội của Nguyễn Hoàng là Chúa Nguyễn Phúc Lan đã dời Phủ vào Huế và đặt Phủ ở làng Kim Long (ngoại ô Huế), năm 1687 Chúa Nguyễn Phúc Thái dời Phủ từ Kim Long về làng Phú Xuân(thành phố Huế ngày nay), thì Huế mới trở thành đất kinh đô. Tuy có một thời gian ngắn (1712-1738) phủ chúa dời ra Bác Vọng, song khi chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) lên ngôi lại cho dời phủ chính vào lại Phú Xuân. Tức là Kinh thành Huế chỉ mới chính thức thành lập là năm 1687, bắt đầu cho một quá trình xây dựng, phát triển Phú Xuân thành một trung tâm đô thị phát đạt của xứ Đàng Trong và của tỉnh TT - Huế sau này.
Đó là một đô thị phát triển thịnh vượng trải dài hai bờ châu thổ sông Hương, từ Kim Long - Dương Xuân đến Bao Vinh - Thanh Hà. Tiếp đó, Phú Xuân là kinh đô của nước Đại Việt thống nhất dưới triều Tây Sơn (1788-1801) và là kinh đô của nước Việt Nam suốt 1,5 thế kỷ dưới triều đại nhà Nguyễn (1802-1945). Trong tiến trình lịch sử này Huế đã chính thức trở thành trung tâm văn hóa lớn nhất và chính thức của người Việt từ hơn hai thế kỷ và cho tới nay. 
Tuy nhiên về văn hóa làng xã và văn hóa tộc họ, vùng Thuận Hóa được hình thành muộn hơn so với các làng xã ở miền Bắc. Vùng đất này tuy được sát nhập vào nước Đại Việt từ năm 1306, nhưng đây là vùng tranh chấp giữa người Việt và người Chăm; suốt hơn 1,5 thế kỷ chiến tranh xảy ra liên miên, khiến cho dân tình khốn khó. Cho mãi đến năm 1471, khi vua Lê Thánh Tông cử đại binh đánh chiếm thành Đồ Bàn, cương giới nước Đại Việt đã đến vùng phía Nam tỉnh Bình Định ngày nay, vùng đất Thuận Hóa không còn là vùng đất biên cương nữa thì cư dân ở đây mới an cư lạc nghiệp được. Nhân dân đã dồn sức lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới, đến giữa thế kỷ XVI làng xóm đã no đủ, yên vui. Đến lúc chúa Nguyễn lập phủ chính ở bên bờ sông Hương, địa bàn nước ta mới bắt đầu mở rộng về phía nam. Các làng xã vùng Thuận Hóa đã dần ổn định và bước sang một giai đoạn phát triển mới.

Có thể nói văn hóa ở vùng Thuận Hóa tuy hình thành muộn hơn so với các tỉnh ở Bắc bộ. Nhưng nét văn hóa ấy không mang đậm dấu ấn của miền Bắc. Những nét ấy được thể hiện rõ khi cư dân người Việt đầu tiên vào lập nghiệp ở vùng Thuận Hóa. Lý do là vì khi di cư vào vùng Thuận Hóa, cư dân Việt đã có sự tiếp xúc với văn hóa Chăm. Sự giao lưu giữa hai nền văn hóa ấy đã tạo nên một nét văn hóa riêng. Lại thêm những điều kiện mà thiên nhiên ban phát cho vùng đất này đã tạo nên tiếng nói, điệu hò, cách ăn mặc, đi đứng… rất Huế, ở vùng TT - Huế ngày nay mà cư dân ở miền Bắc không thể có được.
Trong các sự khác biệt đó, dễ thấy nhất là trong văn hóa tín ngưỡng, mà tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng làng là một ví dụ.
Theo tác giả Nguyễn Từ Chi – khái niệm Thành hoàng giải thích theo gốc Trung Hoa thì hai chữ Thành Hoàng là chỉ vị thần trấn ở thành (thành:) và hào (hoàng: ), là những kiến trúc phòng ngự bao quanh một trung tâm chính trị, quân sự thời cổ. 
Nhưng với người Việt, thì hoàn toàn khác và tín ngưỡng Thành Hoàng có nhiều nguồn gốc phức tạp, trong đó phải kể đến các nguồn gốc bản địa: một vị thần đất, một nhân vật còn sót lại từ những thần thoại xưa, cũng có thể là linh hồn của những người đầu tiên đến khai thác một vùng đất đai, hay tổ tiên của một dòng họ lớn ở địa phương, kể cả một số nhân vật lịch sử của các triều đại, để chung đúc nên diện mạo thống nhất của một vị thần bảo vệ từng làng xã

Tuy vậy khái niệm và chân dung của Thành Hoàng làng xã ở Bắc bộ trong diễn trình lịch sử phát triển làng xã hàng nghìn năm, với dấu ấn của các bậc tiền nhân mở đất lập làng gắn liền với các bậc khai canh khai khẩn đã trở nên quá xa và mờ dần trong tâm thức của cư dân Bắc bộ, không còn là một thứ tín ngưỡng Thành Hoàng nữa. Mà đã được thay thế bằng những nhân vật và khái niệm hoàn toàn mới; đó có thể là những Thiên thần (Tản Viên, Phù Đổng), những nhân vật lịch sử có công lớn với đất nước (Lý Ông Trọng, Phạm Ngũ Lão, Trần Hưng Đạo…) và có khi, lại là một người đang sống, một ông quan to, hay một nhân vật có thế lực, đã có công với làng và được dân làng dễ dàng thay thế cho vị thần Thành Hoàng cũ nay đã không còn che chở gì được cho họ nữa. Chuyện thay đổi vị thần Thành Hoàng vì những nguyên do khác nhau là chuyện thường gặp trong các làng xã Bắc bộ.
Nhưng ở khu vực phía Nam mà điển hình là khu vực TT – Huế hiện nay, tín ngưỡng thờ Thành Hoàng vẫn không thay đổi từ ý nghĩa nguyên sơ ban đầu của nó và thần Thành Hoàng làng là vị thần luôn ngự trị trong lòng người dân xứ Thuận Hóa từ nhiều thế kỷ nay và hầu hết các làng đều có nơi để thờ thần Thành Hoàng (có thể là miếu hoặc đình). 
Có nhiều lý do khác nhau đã khiến cho tín ngưỡng này vẫn được duy trì nơi đây mặc cho những biến cố lịch sử gần đây; nhưng lý do hiển hiện nhất là từ chính cuộc sống của cư dân nơi đây. Từ cuộc sống của con người đầy gian lao vất vả bởi muôn vàn khó khăn, nhiều khi không thể giải quyết được, điều đó khiến người dân chỉ còn biết trông cậy vào sự âm phù của siêu nhiên và nhất là vị thần mệnh danh là Thành Hoàng làng (bảo vệ cho làng). Vì vậy việc thờ Thành Hoàng làng đã không còn là một thứ tín ngưỡng mà đã trở thành một tập tục (tục lệ) của mọi cư dân vùng Thuận Hóa xưa và TT – Huế nay. Việc tế lễ “Xuân Thu nhị kỳ” các vị thần đã được cộng đồng dân cư tâm niệm thờ cúng, việc mở các hội làng đã thể hiện sự thành tâm của cộng đồng cư dân đối với thần, thánh, đồng thời là cơ hội gặp mặt của bà con họ hàng. Do vậy giữa mái đình và người dân đã có sự gắn bó mật thiết và gần gũi. Tóm lại thần Thành hoàng là một vị thần làm chủ trong một vùng đất nhất định và có nhiệm vụ bảo vệ, che chở cho con dân trong vùng đó.

Tuy nhiên Thần Thành Hoàng của mỗi làng xã thường có những nguồn gốc và truyền thuyết cũng khác nhau, điều này phụ thuộc vào diễn biến lịch sử của mỗi địa phương. Nhưng nói chung được phân làm ba hình thức, bao gồm: Thành Hoàng là Thiên thần, Thành Hoàng là Nhiên thần và Thành Hoàng là Nhân thần. 
- Tập hợp thần Thành Hoàng có nguồn gốc từ Thiên thần: Như các vị thần Thiên Y A Na, Thần Tản Viên hay Phù Đổng (chủ yếu được thờ ở khu vực phía Bắc).
- Tập hợp thần Thành Hoàng có nguồn gốc từ Nhiên thần: Đây là loại nhiều nhất như thần Sông, thần Núi, thần Cây, thần Sấm Sét, thần Đá… 
- Tập hợp Thành Hoàng có nguồn gốc từ Nhân thần(đây là hình thức đa số hiện nay tại TT – Huế): Thành Hoàng là Nhân thần đều có gốc tích, lai lịch rõ ràng, việc làm của thần là những hành động nghĩa cử của một con người bằng xương bằng thịt và các cống hiến của thần đều có liên quan ít nhiều với làng, với nước và là những nhân vật có thật trong lịch sử. Có thể đó là những danh tướng như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (của triều Trần), có thể là các vị khai canh, khai khẩn được dân làng tôn lên làm thần Thành Hoàng. Hình thức này là thường thấy ở TT – Huế nhất, ví dụ: ở làng Dương Xuân (phường Hương Sơ) có một vị họ Ngô được tôn lên làm Thành hoàng làng, hay làng Thế Lại thượng có ngài họ Hồ mà theo tập truyền thì đây là vị khai canh của làng, cũng được tôn làm thần Thành Hoàng, vị người Họ Đinh Khắc ở làng Kế Võ (Phú Vang) được sắc phong của triều Nguyễn tôn làm Thần Thành Hoàng làng Kế Võ.

Dưới triều Nguyễn, các tỉnh đều có miếu thờ Thành Hoàng của một tỉnh được lập ở lỵ sở của tỉnh thành đó. Ở kinh đô Huế, có miếu Đô Thành Hoàng ở phía tây trong kinh thành Huế (nay thuộc phường Thuận Hòa).Việc tế thần Thành hoàng này do nhà nước chủ trì; cứ đến tháng hai, có lệ cử quan võ ra tế. 
Nói chung người dân ở các làng xưa kia ngoài thờ vị Bổn cảnh/ thổ/ xã/ xứ Thành Hoàng, dân ta cũng còn thờ vị Thổ thần, còn gọi là Thổ công: “Đất có Thổ công, sông có Hà bá”, là vậy. Và mọi tư gia đều thờ Thổ công, còn Thành hoàng thì chỉ làng xã trở lên mới thờ .
Cũng xuất phát từ chính đặc trưng lịch sử - văn hóa của một vùng đất non trẻ trên con đường mở cõi đi về phương Nam của người Việt. Trong các đối tượng được làng xã thờ tự, thường phổ biến hiện tượng vinh danh một cách trọng thể các vị thần linh có hành trạng rõ ràng, gần gũi với đời sống nhân dân. Trái lại do phần lớn làng xã của người Việt ở Bắc bộ do định cư quá lâu dài, thời gian đã làm phai mờ hình ảnh các vị khai canh lập làng; hình ảnh của họ chỉ còn tồn tại khá mơ hồ trong tiềm thức của cư dân vùng này, có chăng ở đâu đó chỉ còn lại hình ảnh một vị thần Thành Hoàng. Nhưng cũng đồng thời thần Thành Hoàng ở đàng ngoài không ít chân dung là đại diện cho thế lực triều đình ở làng xã, thường là nhân vật lịch sử có thực hoặc được huyền thoại hóa; cũng có thể là những người có công với dân làng; hoặc thậm chí là những đối tượng có quyền lực ảnh hưởng đến sự an nguy cộng đồng.

Do đó vai trò của các bậc tiền nhân Khai canh Khai khẩn được đặc biệt ghi nhận một cách thật trang trọng trong mối quan hệ giao lưu tiếp biến văn hóa trên một vùng đất mới, có lẽ đó là nguyên nhân sâu xa cho sự ra đời của tín ngưỡng Thành Hoàng đúng nghĩa nhất của danh xưng này tại khu vực TT – Huế hiện nay. Sau đó với danh xưng đầy tính phiếm xưng, tồn tại phổ biến trong đời sống làng xã, là sự ra đời của các ngôi miếu Thành Hoàng nhưng quy mô, tính chất vừa phải, như một nét văn hóa đặc trưng của vùng đất này.
Quan nghiên cứu chúng tôi thấy một số đặc điểm trong việc thờ thần Thành Hoàng và thần Khai canh ở các làng xã trong khu vực TT- Huế, như sau: Nếu làng gốc có miếu Khai canh thì ở làng ngọn không có, nhưng miếu Thành Hoàng thì có thể có ở cả hai nơi. Như nói trên đây, miếu Thành Hoàng trong vùng này có quy mô khá khiêm tốn, thường tọa lạc trên một vùng rậm rạp heo hút, hay ở một khu đất ở cuối làng, đầu làng, nhưng cũng có khi miếu Thành Hoàng tọa lạc ở một bên đình làng. Nhưng miếu Thành Hoàng làng thường tọa lạc ở nơi có rất nhiều cây cổ thụ, tạo nên một nét linh thiêng, cổ kính và luôn được người dân trong làng trân trọng. 
Khi di cư vào Nam, ảnh hưởng của văn hóa đất Bắc ở vùng đất mới đã không còn phù hợp, không còn tính phiếm xưng nữa nên bắt buộc người Việt khi vào Nam phải tìm ra một vị Thành Hoàng mới, cùng với những sự tích rõ ràng, những nhân vật có thật. Chính những vị này đã bù đắp cho những khoảng trống tâm linh trong nét văn hóa tinh thần của người Việt khi di cư vào Nam. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn một số nơi tại chính TT – Huế vẫn tôn những vị Thành Hoàng là thần Chăm, hay những vị Thổ Thần làm Thành Hoàng .

Qua trình bày trên đây, chúng ta thấy mối quan hệ khá đặc biệt và thật gần gũi giữa Tín ngưỡng Thành hoàng và Tín ngưỡng Khai canh của cư dân Thuận hóa mà những nơi khác không có. Các vị Thần hoàng ở đây đa số là những người thật việc thật, hoặc các vị Khai canh, Khai khẩn được tôn lên làm Thành Hoàng khi những người dân của làng đều biết đều thấy; họ không phải là một cái gì đó xa vời hay trừu tương; hoặc bị áp đặt bởi cường quyền của nhà nước đương thời. Nên người dân đã gìn giữ nét văn hóa tín ngưỡng này một cách tự nguyện; mặc cho các biến động của thế cuộc.

THAY LỜI KẾT :
Trong các vị thần mà người dân thờ tự tại các làng quê xứ Huế, thì thờ cúng Thành Hoàng được coi là quan trọng nhất. Dù các vị Thành Hoàng là nhân vật siêu nhiên, huyền thoại hay những con người có thật việc thật; nhưng khi đã được người dân tôn sùng thì đó là sự phản ánh những quan niệm về tư tưởng, nguyện vọng, ước muốn và tình cảm của con người trong cuộc đấu tranh chống thiên tai địch họa bảo vệ cuộc sống yên bình của mình.
Khi nghiên cứu về tín ngưỡng Thành Hoàng ở vùng TT - Huế chúng tôi cũng đã gặp một số quan điểm khá sai lạc, khi một số nhà nghiên cứu mác- xít đã phê phán tục thờ cúng Thành Hoàng tại TT – Huế, họ cho rằng “ … thông qua một sức mạnh vô hình của Thành Hoàn Làng. Chế độ quân chủ tập quyền đã “lợi dụng” nó để biến thành một sợi đây vô hình rành buột người dân, phải tuân theo lề thói của chính quyền, nhằm phục vụ lợi ích cho chế độ”; mà theo họ việc ban sắc phong cho các vị thần, trong đó có thần Thành Hoàng là một ví dụ.
Theo tôi việc này cũng đương nhiên thôi, xã hội nào và chế độ chính trị nào cũng đều triệt để lợi dụng các tín ngưỡng của người dân để phục vụ cho lợi ích của thể chế cầm quyền cả. Nhưng vấn đề là các tín ngưỡng đó có được người dân trân trọng, đưa lên thành một thứ tập tục và duy trì từ đời này qua đời khác hay không lại là một vấn đề khác ?

ĐKT
12.01.2005

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Vì sao người quân tử không tranh cãi với kẻ tiểu nhân?

Không tranh cãi với kẻ tiểu nhân Khổng Tử có một cậu học trò rất thích tranh luận. Một hôm, người học trò này đến thăm Khổng Tử t...