Đôi bờ dòng Hương Giang
Có một số nhạc sĩ, nhà
thơ thường ví von – Huế là một món quà cưới của một người con gái họ Trần. Đó
là dưới góc nhìn của thi ca, nhưng dưới góc nhìn của những nhà nghiên cứu lịch
sử Xứ Thuận Hóa thì đó cũng là một thực tế . Từ năm 1306 trở về trước Xứ Thuận
Hóa vốn là Châu Ô và Châu Rí của nước Champa ( Chiêm thành) , sau cuộc ra đi của Công Chúa Trần Huyền Trân về làm
dâu Champa, vùng đất này được trở về Đại
Việt như là một món quà cưới của Vua Chế Mân nước Champa – Đó là cội nguồn của
xứ Thuận Hóa, mà lúc mới trở về Đại Việt
được đặt tên là Châu thuận và Châu Hóa, tới thời nội thuộc nhà Minh được gom
lại thành xứ Thuận Hóa. Xứ Thuận Hóa là vùng đất trải dài từ tỉnh Quảng Bình
cho tới huyện Điện bàn tỉnh Quảng Nam ngày nay .
Sau
khi trở về Đại Việt năm 1306, triều đình
nhà Trần đã cử Quan binh vào trấn giữ đồng thời di dân Đại Việt vào khai hoang
vùng đất mới, nhân cơ hội này cư dân vùng đồng bằng Bắc bộ, vùng trấn Sơn Nam và
vùng Thanh – Nghệ đã lũ lượt kéo nhau vào khai hoang xây dựng quê mới, thành lập nên những làng mới,
hình thành nên những dòng họ mới. Sự kiện này đã đánh dấu điểm bắt đầu của công
cuộc mở mang bờ cỏi về phương Nam
kéo dài mấy trăm năm về sau của dân tộc ta .
Riêng
vùng Thuận Hóa, chúng ta thấy có bốn cuộc nhập cư lớn. Từ năm 1306 cho tới cuộc
chiến tranh cuối cùng giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn năm 1672, các cuộc di dân
lúc này chủ yếu là các cuộc di dân từ bắc vào nam. Sau năm 1672, đất nước tạm
thời bị chia cắt làm hai lấy sông Gianh làm giới tuyến, các cuộc di dân bị gián
đoạn hơn 100 năm cho tới khi Vua Quang
Trung – Nguyễn Huệ đánh tan quân Trịnh thống nhất đất nước năm 1786, các cuộc
di dân mới có thể được tiếp tục. Thời kỳ này chứng kiến một hiện tượng là có
những cuộc nhập cư ngược từ phía Nam vào Thuận Hóa (Phú Xuân), họ là những người theo đoàn quân của Nguyễn Huệ và
Nguyễn Phúc Ánh đến đóng quân ở Kinh Đô Phú Xuân , đã ở lại định cư lập nghiệp
ở đây.
Các
cuộc nhập cư lớn vào Thuận Hóa qua các thời kỳ gồm :
- Cuộc nhập cư thời Trần – Hồ
(1307-1428)
- Cuộc nhập cư thời Lê – Mạc
(1428-1558)
- Cuộc nhập cư thời Trịnh – Nguyễn
(1558-1786)
-
Cuộc nhập cư thời Tây Sơn – Nguyễn (1786-1945)
1. Cuộc nhập cư đầu tiên thời Trần – Hồ ( 1307-
1428 ) :
Là của những người lính vào tiếp quản vùng
đất vừa được nhà Trần tiếp nhận và những người đi theo đoàn quân làm công tác
an dân, chủ yếu là quan lại, cùng một số rất ít cư dân vùng đồng bằng sông Hồng,
trấn Sơn Nam và Thanh – Nghệ dám mạo hiểm vào lập nghiệp ở vùng đất mới . Vì
như chính sử ghi lại : nhiều năm sau – “ vì cư dân bản địa
người Chăm của thôn La Thủy, thôn Tác Hồng và thôn Đa Bồng tại Hóa Châu nổi
loạn chống lại chính quyền mới của người Việt. Vua sai Ngự sử trung tán Đoàn Nhữ
Hài vào làm Hành khiển tuyên bố đức ý, đổi tên làm châu Thuận, châu Hóa, kén
chọn người Chiêm cho làm quan, lại cấp ruộng đất và tha 3 năm tô thuế ”. Thì cư
dân người Việt lúc này mới chỉ là thiểu
số như sử chép.
Cuối thế kỷ 14 cư dân mới bắt đầu đông
dần lên, nhà Trần đã lập tại vùng đất Hóa Châu 7 huyện mới : Trà Kệ, Lợi Bồng,
Sa lệnh, Tư Dung, Bồ Đài, Bồ Lãng và Thế Vinhvới khoảng 40 làng (ấp, thôn, trại,
sách) . Một số dấu tích còn lưu lại trong Gia phả của các dòng Họ cùng nhập cư
đợt này hiện nay vẫn còn ở Thừa Thiên – Huế như : Họ Hồ làng Thế Lại Thượng ở
đường Bạch Đằng, thành phố Huế, họ Phan ở làng La Vân Thượng (xã Quảng Thọ,
huyện Quảng Điền )…Nhưng nói chung nguồn gốc của các dòng Họ nhập cư đợt này
rất mờ nhạt, vì đa phần các Gia phả đều mới lập khoảng 200 năm trở lại. Phần
lớn được ghi lại theo trí nhớ của nhiều đời sau, theo khẩu truyền, các sự kiện
trình bày theo cảm quan, mơ hồ, lộn xộn về thời gian.
Cả một thời gian dài gần
200 năm sau đó không có một văn bản hoặc tư liệu nào của các dòng Họ được ghi
chép vào thời gian này. Vì qua nhiều cuộc điền dã của các nhà khoa học lịch sử,
của các nhà nghiên cứu lịch sử Huế, của Khoa Lịch sử trường Đại Học Sư Phạm Huế
…chúng ta đã không tìm thấy được bất cứ một tư liệu nào được ghi chép vào thời
gian này đang còn lưu giữ ở các dòng Họ trên toàn tỉnh Thừa Thiên – Huế cả ! (1)
Hơn nữa, sau khi
Công Chúa Huyền Trân trở về Đại Việt, quân Chiêm Thành lấy cớ này đã liên tục
tấn công Châu Thuận và Châu Hóa, chiến tranh xảy ra liên miên. Đỉnh điểm là năm 1377 Vua Trần Duệ Tông thân chinh đem quân chinh phạt Chiêm Thành, trong một
cuộc tiến quân đánh chiếm thành Đồ Bàn, Vua Trần Duệ Tông vì mắc mưu trá hàng
của địch đã tử trận tại kinh đô Đồ Bàn, quân Đại Việt đại bại. Quân Chiêm
Thành đã phản công tiến chiếm lại Châu
Thuận, Châu Hóa chiếm luôn Châu Hoan, châu Ái (tức là toàn bộ vùng Thanh - Nghệ
- Tỉnh và Bình - Trị - Thiên của Việt Nam hiện nay) suốt 12 năm đồng thời xua đuổi hầu hết người Việt khỏi khu vực này.
Quân
Chămpa nhiều lần
tấn công cướp phá thành Thăng Long, cho đến tháng Giêng năm Canh Ngọ ( 1390 ) -
Vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga bị quân Đại Việt bắn chết trong khi tấn công
thành Thăng Long quân Chiêm Thành bại trận mới rút khỏi vùng đất này. Thành quả
xây dựng gần 100 năm của cư dân vùng Thuận Hóa lại phải bắt đầu lại từ con số
không.
Nhưng không lâu sau đó nhà Trần suy vong (năm 1400), nhà Hồ lên thay,
nhưng nhà Hồ tồn tại quá ngắn ngủi (1400 – 1407). Vì mất lòng dân - cuộc kháng
chiến chống quân Minh của Nhà Hồ bị thất bại, năm 1407 cha con Hồ Quý Ly bị bắt
giải về Kim lăng; nước ta bị giặc Minh chiếm đóng trong hơn 20 năm. Trong thời
gian Đại Việt bị quân Minh đô hộ, lợi dụng việc này quân Chiêm Thành đã tiến
chiếm lại vùng Thuận Hóa và 2 châu Chiêm
Động, Cổ Luỹ (Quảng Nam, Quảng Ngãi).
Cho
đến năm Mậu Thân(1428), cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi giành thắng lợi hoàn
toàn, đất nước mới trở lại thời tự chủ.
Tư liệu lịch sử này đã
lý giải được phần nào tại sao không thể có các tư liệu còn được lưu giữ ở các
dòng Họ. Hơn nữa, việc học hành thời Lý, Trần, Hồ đang còn rất sơ sài chỉ tập
trung chung quanh vùng trung tâm Thăng Long, các vùng khác hầu như chưa có gì !
Và cũng chỉ tập trung ở một số ít gia đình quan lại hoặc địa chủ giàu có, nhưng
những tầng lớp này thì không thể là những người di dân được .
2. Cuộc nhập cư thứ hai , thời Lê –Mạc (1428 –
1558 ) :
Sau chiến thắng giặc Minh
(1428), Vua Lê Thái Tổ đã cử quan quân vào lấy lại Thuận Hóa và cử các trọng
thần vào trấn thủ, tổ chức ổn định đời sống nhân dân, tăng cường di dân, khai
hoang phục hóa, thành lập các làng xã mới. Nhưng tình hình Thuận Hóa không ổn
định, quân Chiêm Thành nhiều lần tấn công châu Hóa. Sau khi nhà Hậu Lê tiếp
quản Thuận Hóa, quân Chiêm Thành đã liên tục quấy nhiễu khiến cho cư dân vùng
này không thể an cư được. Nhất là sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà (1434), quân
Chiêm Thành lại nhiều lần vượt đèo Hải Vân tấn công châu Hóa. Năm 1446 vua Lê
Nhân Tông cử đại quân chủ động tấn công quân
Chiêm Thành, đẩy lui quân Chiêm ra khỏi xứ Thuận Hóa giữ yên bờ cõi.
Năm 1469, quân Chiêm Thành lại khởi sự chiến
dịch quấy phá Hóa Châu, tháng 9/1470, vua Chiêm Thành là Bàn Trà Toàn đã huy
động 10 vạn quân và voi ngựa tiến đánh châu Hóa. Cuối năm đó vua Lê Thánh Tông
ngự giá thân chinh đánh Chiêm Thành. Sau nhiều trận giao tranh, quân Chiêm tan
vỡ, vua Lê Thánh Tông đã đưa quân đánh vào tận kinh đô Bồ Đàn, chiếm kinh đô
của Chiêm Thành, bắt sống vua Chiêm là Trà Toàn đem theo về Đại Việt.
Sau chiến thắng Đồ Bàn - năm 1471 của quân
dân Đại Việt, chiến dịch bình định phương Nam dưới quyền Tiết chế của vua Lê
Thánh Tông thắng lợi hoàn toàn. Đã chấm dứt mối đe dọa xâm lấn Hóa Châu của
người Chăm pa, cương giới nước Đại Việt đã vào tận tận đèo Cù Mông phía Nam
tỉnh Bình Định ngày nay, vùng đất Thuận Hóa không còn là vùng đất biên cương nữa .
Chỉ sau chiến thắng lịch sử
này(1471), nhân dân vùng Thuận Hóa - mới thực sự được hưởng thanh bình, ổn định
liên tục trong nhiều năm sau. Nhân dân vùng này, có được một khoản thời gian
hơn 50 năm thanh bình đã ra sức khôi phục và tái thiết quê hương, khôi phục lại
các làng xóm bị tàn phá, nhân dân lưu tán do chiến tranh. Hưởng ứng chủ trương di dân, nhân dân các vùng đồng bằng sông Hồng, vùng trấn Sơn Nam và các
Châu Hoan, Ái (tức là Thanh Hoá và Nghệ An ngày nay) cùng một số quan quân Nam
chinh trở về đã đem gia đình và bà con vào khai khẩn đất hoang, hàng loạt các
làng - xã đã được thành lập vào thời gian này trên vùng đất này.
Đây là giai đoạn khởi thủy chính thức
của các làng – xã cổ nhất, các tộc Họ lâu đời nhất tại Hóa Châu (Thừa Thiên –
Huế ngày nay). Trước thời điểm này (cụ thể là trước năm 1446), tại Hóa Châu không
thể có một làng – xã nào được định danh và có được địa bàn cư trú cụ thể cả.
Trước
sự thật lịch sử này, có thể đã lý
giải được một số thắc mắc của giới nghiên cứu sử của Huế hiện nay, là tại sao có một khoảng trống trong
lịch sử văn hóa - xã hội vùng Thuận Hóa ở giai đoạn này (1306 – 1470) ? Vì hầu
như cho tới nay giới sử học đã không thể tìm thấy được bất cứ một thư tịch, một
văn bản hoặc một chứng tích nào của người Việt ở giai đoạn này, còn lưu lại
được đến ngày nay tại khu vực này ? Ở cấp độ vùng miền, tại các tỉnh (thành),
trong các làng - xã, trong các dòng Họ ở khu vực này cũng không thể tìm thấy
được một thư tịch, một văn bản nào của người Việt được lập trong giai đoạn này
hiện đang còn được lưu giữ ? (8).
Vì thời gian này (1308 – 1470) vùng
đất Thuận Hóa thời gian yên ổn không được bao nhiêu, lúc tổ tiên của các dòng
Họ mới vào khai cơ lập nghiệp thì gặp thời loạn lạc, tới lúc thanh bình thì các
vị đã thành người thiên cổ. Nên chúng ta có thể hiểu tại sao đa số Gia phả của
các dòng Họ nhập cư vào Thuận Hóa trong giai đoạn này, ghi chép nguồn gốc của
dòng Họ mình không rỏ ràng, các đời đầu đều rất sơ sài, mơ hồ. Vì như nói trên
đây - các vị Khai canh, Khai khẩn lúc mới vào Thuận Hóa lập nghiệp, phải lo cái
ăn, cái ở , cái mặc, lo chiến tranh liên miên đã khó rồi,
nên chưa thể quan tâm đến việc chữ nghĩa. Cho tới khi xóm làng đã yên ổn, lớp
hậu thế mới có thể tính chuyện học hành và ghi chép lại việc quá khứ; nhưng đời
xa, người khuất việc ghi chép chỉ nhờ vào hồi ức và khẩu truyền của các đời
trước, không thể tránh được sai sót.
Nhân
dân vùng Thuận Hóa thoát khỏi nạn chiến tranh đã dần đi đến ổn định và bắt đầu
giai đoạn phát triển,
quá trình di dân từ phía Bắc vào Thuận Hóa được tiếp tục. Hàng loạt các ngôi làng mới được thành lập
trong dịp này, như : Duy sơn, Tân chu, Nghi giang, Diêm trường, Phụng chánh, Cự
lại, Kế chủng (Kế sung), Thái dương, Hòa duân, Hà cùng (An dương), Triều sơn,
Thanh cần, La Khê, Bao vinh, Đức bưu, Dương Xuân, Phổ Lại, Đại Lộc , Kế Môn,
Phò Trạch, Hương Triền (Thanh Hương), Đàm bổng(Ưu Điềm) …(2).
Năm Bính Tuất (1466) Vua Lê Thánh Tông tổ
chức cải cách hành chánh tổ chức đặt 13 đạo Thừa Tuyên trong cả nước, xứ Thuận
Hóa được gọi là Thừa Tuyên Thuận Hóa, gồm có hai phủ là Phủ Tân Bình và Phủ
Triệu Phong. Ba huyện Kim trà , Đan Điền và Tư Vinh nằm trong phủ Triệu Phong
là toàn bộ diện tích tỉnh Thừa Thiên – Huế hiện nay.
Theo các thư tịch cổ còn lưu lại được đến
ngày nay trong các làng, xã và các dòng Họ tại Thừa Thiên, theo đó : - Các vị
khai canh làng xã, các vị khai canh – khai khẩn của các Họ Tộc nhập cư vào
Thuận Hóa trong giai đoạn này được ghi nhận rất đầy đủ. Phần lớn họ là quân
lính hoặc tướng lĩnh trong các đội quân, khi yên việc quân đã tự nguyện xin ở
lại khai thác vùng này, hoặc có một số là chức sắc phụng chỉ triều đình ở lại
trấn giữ vùng biên cương. Đa phần họ đều xuất thân từ vùng đồng bằng Bắc bộ,
vùng duyên hải Bắc bộ và vùng trấn Sơn Nam. Một số dòng Họ tiêu biều cho
thời gian này - có gia phả và các tư liệu còn lưu lại khá đầy đủ cho đến nay,
như : Họ Lê ở làng Xuân Hòa, xã Hương Long, thành phố Huế ; họ Phan ở làng
Thanh Phước, xã hương Phong, thị xã Hương Trà .
Cuối thời nhà Lê -1527, miền Bắc lại lâm vào
giai đoạn bất ổn, triều đình bị phân chia bè phái, tranh chấp nhau, khiến cho
xã hội loạn lạc, sản xuất đình đốn vì chiến tranh liên miên. Trái lại vùng Thuận
Hóa lại bình yên, nên nhân dân ở đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Nghệ đã dắt díu nhau
di cư vào Thuận Hóa mục đích là tìm nơi yên ổn để làm ăn sinh sống , xây dựng
quê mới. Đây là đợt di cư tự phát nhưng rất đông đảo, tiêu biểu cho đợt di cư
này là các dòng Họ Nguyễn Đăng ở làng An Hòa, xã Hương Sơ, thị xã Hương Trà ;
Họ Võ làng Thái Dương, xã Hải dương , thị xã Hương Trà ; họ Huỳnh ở làng Long
Hồ, xã Hương Hồ, thị xã Hương trà (3)…
3.
Cuộc nhập cư thứ ba, thời Trịnh – Nguyễn (1558 – 1786):
Thời kỳ này, xứ Thuận Hóa tương đối thanh
bình hơn so với miền Bắc, các cuộc di cư phần lớn được Chúa Nguyễn khuyến khích
và bảo trợ, nguồn gốc các dòng họ tương đối rỏ ràng, năm tháng lập làng phần
lớn được lưu lại. Nhưng chính xác tuyệt đối thì cần phải xem lại, vì theo tư
liệu điền dã, phần lớn các Gia phả của các dòng Họ di cư vào Thuận Hóa đợt này
thường có câu mở đầu “ Ngài khai canh họ ta theo Chúa Tiên vào Nam”.
Chúa Tiên – tức Nguyễn Hoàng.
Nhưng Nguyễn Hoàng vào Nam tới ba lần, lần đầu và lần cuối
cách nhau 42 năm. Lần đầu năm 1558, Chúa Tiên vào Nam là đi lánh nạn tránh sự truy
sát của Trịnh Kiểm, lần thứ hai năm 1570 sau khi ra thăm quê và bái yết Vua Lê;
lần thứ ba là năm 1600 – sau khi ra mừng Chúa Trịnh đánh bại nhà Mạc khôi phục
Thăng Long, bị Vua Lê giữ lại tới 7 năm để đi dẹp loạn cát cứ - là
một cuộc chạy trốn thực sự của Chúa Tiên nhằm thoát khỏi vòng cương tỏa của
Trịnh Tùng, lúc này ông đã 76 tuổi. Nguyễn Hoàng ở Ngôi Chúa thêm 13 năm và mất
năm 1613, thọ 89 tuổi .
Phần lớn các dòng Họ nhập cư xứ Thuận Hóa
đầu tiên của đợt này, đều có nguồn gốc từ Thanh Hóa , đặc biệt là huyện Tống
Sơn, quê hương của các Chúa Nguyễn. Họ đa phần là con cháu của nhà Nguyễn hoặc
là trọng thần trong các đội quân nghĩa dũng theo Chúa vào Nam. Đó là trường hợp của các dòng
Họ Khai Canh ở làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ ,
huyện Phú Lộc), họ Trương ở làng Nham Biều (xã Hương hồ , huyện Hương Trà); họ Đặng ở làng Thanh lương (xã hương Xuân, huyện Hương Trà) đặc biệt
là họ Nguyễn Phúc của nhà Nguyễn …
Ngoài ra còn có một số dòng Họ cũng nhập
cư Thuận Hóa đợt này có nguồn gốc ở Nghệ an, Hà Tĩnh cũng là những người có
công với Chúa Nguyễn, như trường hợp các dòng Họ Khai Canh ở làng An Bằng (xã Vinh An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên
– Huế , lập làng năm 1571) . Các Họ Khai canh ở đây được Chúa Nguyễn giao
cho cai quản vùng ven biển từ cửa Eo (cửa
Thuận an cũ) đến biển Cảnh Dương (mũi
Chân Mây ngày nay ). Họ Nguyễn Khoa là một dòng Họ lớn có nguồn gốc từ Hải
Dương cũng vào định cư đợt này; họ Nguyễn Kinh Nhơn ở phường Đúc, thành phố Huế
có gốc từ Bắc Ninh, nguyên là những tay thợ đúc của xứ Kinh Bắc xưa. Họ Nguyễn
Cữu ở làng Vân Dương, xã Thủy Vân , Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế, cũng là
một dòng họ lớn có gốc huyện Tống sơn,
Thanh hóa; là dòng Họ có nhiều đời con cháu là các trọng thần của nhà Nguyễn .
Trên đây là một số dòng họ tiêu biểu nhập
cư Thuận Hóa đợt này, đa số đều có nguồn gốc rõ ràng, các lần di dân của các vị
Khai canh của các dòng họ này đều tương ứng với một vài sự kiện của lịch sử nên
đã được chính sử ghi chép lại. Tuy nhiên cũng có rất nhiều vị Khai Canh của
nhiều dòng Họ cũng nhập cư Thuận Hóa đợt này, nhưng sau thời gian Nguyễn Hoàng
vào Nam lần cuối (1600), hoặc ở các đời Chúa Nguyễn tiếp theo với nhiều lý do
khác nhau đã không được chính sử ghi chép lại. Có thể họ chỉ là dân thường và
việc của họ chỉ là việc của bách tính, khiến cho việc tìm cội nguồn của nhiều
dòng Họ hiện nay ở Thừa Thiên - Huế lâm vào bế tắc.
Hơn nữa sau khi Nguyễn Hoàng mất (năm 1613),
chỉ 14 năm sau (năm 1627) là đã bắt đầu cuộc phân tranh Trịnh – Nguyễn, vùng
Thuận Hóa là trung tâm của cuộc chiến, nơi giành giật của hai bên.
Từ đầu thế kỷ 17 cho đến đầu thế kỷ 19
vùng đất Thuận Hóa tuy không còn là vùng đất biên cương, nhưng đây là địa đầu
giới tuyến tranh chấp ác liệt của hai thế lực đang tranh giành quyền lực ở trong
nước đó là Trịnh – Nguyễn. Hai bên
đã huy động sức người sức của và tiềm lực của đất nước vào một cuộc chiến kéo
dài hơn 50 năm. Đã diễn ra 7 cuộc
chiến lớn ác liệt vào các năm 1627-1630-1635-1648-1655-1661-1672, cuộc chiến đã
khiến cho đất nước kiệt quệ, nhân dân đói khổ; sau khi hai bên thỏa thuận chấm dứt chiến tranh (1672), lấy sông Gianh làm giới tuyến; hơn 200
năm đất nước bị chia cắt.
Trong các cuộc
chiến vào các năm như trên, chiến trường chủ yếu là vùng Quảng Bình – Quảng Trị
- vùng sông Gianh với các chiến lũy nổi tiếng như Lũy Thầy – Lũy Trường Dục.
Trong các cuộc chiến này, lúc đầu Chúa Trịnh với binh lực mạnh hơn hẳn đã lấy
danh nghĩa vua Lê tấn công quân Nguyễn, do binh lực yếu quân Nguyễn chỉ lo
chống đỡ. Nhưng ba lần cuối vào các năm 1655-1661-1672 dưới thời Chúa Hiền
Vương – Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687) quân Nguyễn bắt đầu phản công, đặc biệt
là trong ba lần tấn công cuối cùng này quân Nguyễn lần đầu tiên vượt sông Gianh
tấn công ra Bắc, đuổi quân Trịnh tới gần thành Thăng Long.
Trong các cuộc
tấn công cuối cùng này, theo chính sử ghi chép lại thì quân Nguyễn đã ở lại
chiếm đóng vùng Châu Hoan, Châu Ái (nay là Ninh bình, Thanh - Nghệ - Tĩnh) gần
5 năm. Sau khi rút quân về Nam
đã bắt vô số tù binh đưa vào Nam
để tăng cường nhân lực. Đồng thời kêu gọi và cưỡng bức hàng vạn dân đinh và gia
đình họ đưa vào Nam,
tạo nên cuộc di dân lớn nhất trong lịch sử thời ấy. Cuộc di dân này cư dân phải
di chuyển rất dài, cụ thể là từ Ninh Bình, Thanh - Nghệ - Tĩnh vào tận Thuận
Hóa, Quảng Nam – Quảng Ngãi. Trước đó do phương tiện di chuyển khó khăn nên các
cuộc di cư chủ yếu xảy ra trong nội tỉnh hoặc các tỉnh giáp nhau, theo phương
thức vết dầu loang và kéo dài có thể vài thế hệ mới đến được nơi định cư. Nhưng
cuộc di dân này có sự trợ giúp của Nhà nước Quân chủ về phương tiện và lương
thực nên đã được tiến hành với quy mô lớn và di chuyển xa hơn, đi thẳng từ nơi
đi cho đến nơi cần đến.
4 . Cuộc nhập cư thời Tây Sơn – Nguyễn ( 1786
– 1945 ) :
Như đã nói ở phần đầu, thời kỳ này xã hội
xứ Thuận Hóa chứng kiến một thời kỳ đặc biệt, đó là trào lưu di cư từ các tỉnh
phía Nam
ra lại Thuận Hóa. Hay còn gọi là hiện tượng nhập cư ngược từ phía Nam ra Phú
Xuân – Huế, gồm những người theo các đoàn quân của Quang Trung – Nguyễn Huệ và
Nguyễn Phúc Ánh vào giải phóng hay khôi phục Phú Xuân ( theo nhiều cách gọi khác nhau ). Họ là những tướng lĩnh, những quân
lính, những quan chức dưới trướng của hai vị Vua nói trên, sau khi đến Kinh Đô
Phú Xuân làm nhiệm vụ đã đem theo gia đình đến định cư hẳn ở đây, lập nên những
dòng Họ mới, thậm chí là những làng mới. Thời Tây sơn thì đa số các dòng Họ này
đều xuất phát từ Quảng Nam đến Bình Định, như Họ Lê Nhữ làng Mỹ Á ( xã Vinh Giang ,Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế),
họ Phan làng Mỹ Lợi ( xã Vinh Mỹ, Phú Lộc,
tỉnh Thừa thiên – Huế ), một số dòng Họ ở làng An bằng (xã Vinh an , Phú Lộc )….Điều này đã lý
giải tại sao dân làng Mỹ Lợi có giọng nói hoàn toàn khác với đa số cư dân vùng
này, ( do pha trộn giữa cư dân xứ Huế và
Quảng Nam, Bình Định ).
Năm 1802, khi Vua Gia Long khôi phục
thành Phú Xuân, ngoài một số người gốc Thuận Hóa là trọng thần của triều đình
cùng vua trở về, còn có rất nhiều người gốc Nam bộ đi theo làm nhiệm vụ rồi
định cư luôn, trường hợp như : họ Phạm Đăng ( ở phường Kim Long, thành phố Huế),
họ Đoàn cũng ở Kim Long. Trong các dòng Họ này, có một nhân vật rất nổi tiếng
đó là Phạm Đăng Hưng – nguyên là Thượng thư Bộ lễ triều Minh Mạng (ông là thân sinh của Hoàng Thái Hậu Từ Dũ ,
bố vợ vua Thiệu Trị , ông ngoại của vua Tự Đức), ông là người thành lập hội
Nam
châu hội quán làm nơi sinh hoạt, gặp gỡ của những người gốc Nam Bộ ra
lập nghiệp ở Thừa Thiên. Sau khi Hội nam châu tương tế trở nên quá nhỏ so với
lượng người Nam Bộ định cư tại Kinh Đô, năm 1904 Vua Thành Thái đã cấp đất để
thành lập làng Nam Trung, ở Phú Đa, huyện Phú Vang - ngôi làng Nam bộ duy nhất
tại Thừa Thiên – Huế, làm nơi thờ cúng, tế tự cho các dòng Họ gốc Nam Bộ. Ngôi
làng có đầy đủ các tiêu chuẩn của một ngôi làng như quy định của luật pháp thời
ấy, được cấp 9 mẫu đất để làm tế điền và 7 sào đất để làm Từ Đường Cửu Tộc tại
huyện lỵ Phú Vang. Nhưng có một giai thoại có thật về ngôi làng này, đó là ngôi
làng có “quan nhiều hơn dân”, vì thực tế “dân làng” đều là quan lại
khá giả ở Kinh thành chỉ về làng khi có việc Làng, số cư dân ở lại làng rất ít
.
Vấn
đề nguồn gốc của các dòng Họ - ngoài một số dòng Họ có tầm ảnh hưởng tới lịch
sử của dân tộc hoặc vùng miền được chính sử ghi lại, còn đa số các dòng Họ là
tự ghi chép lại, theo khả năng và truyền thống của dòng Họ mình. Việc ghi lại nguồn
gốc có thể bằng Hương Phả, Tộc Phả hay Chi Phả, để truyền lại cho các thế hệ
sau. Thật là hạnh phúc cho con cháu mỗi Tộc Họ khi dòng Họ mình có được một bộ
Gia phả có đầy đủ nguồn gốc và rỏ ràng về thế thứ ?
Nhưng
như trình bày trên đây, đa số Gia Phả của các dòng Họ ở Thừa Thiên – Huế hiện
nay đều mới được lập khoảng 200 năm trở lại, chi tiết sự kiện niên điểm không
được chính xác, văn phong dân gian đơn giản, các sự kiện trình bày theo cảm
quan, được ghi lại theo khẩu truyền của nhiều đời sau. Nên cần phải nghiên cứu
chuyên sâu một cách khoa học mới tìm ra được sự thật.
Theo các tư liệu điền dã (1) thì bản Gia Phả được
ghi chép cổ nhất hiện đang được lưu giữ tại Thừa Thiên –Huế là Lê
tộc thế phả của Họ Lê ở làng La Khê, huyện Hương Trà , lập năm Cảnh
Hưng thứ hai (1741) - có nội dung rất sơ sài, đơn giản. Tại thôn 5 làng Mỹ Lợi
có bản Phan thị gia phả lập năm
Gia Long thứ 2 (1803). Là hai bản tiêu biểu có thể nói là cổ nhất được các nhà
nghiên cứu tìm thấy cho tới nay, còn lại đa số các bản Gia Phả đều mới được lập
từ thời Tự Đức (1846-1886) trở về sau. Chúng tôi cũng đã tính tới khả năng là
có thể các bản Gia phả mới được chép lại và bản cũ không còn, nhưng căn cứ vào
nội dung và các điển tích được ghi chép chúng tôi cũng có thể xác định được phần
nào bản gốc của các gia phả này lập vào thời gian nào !
Trên
đây là sơ lược chung về nguồn gốc của các Họ Tộc xứ Thuận Hóa – Phú Xuân –Thừa
Thiên Huế. Đây có thể là những điều mà nhiều người đã biết, nhưng cũng có thể
có một số người chưa biết, xin được viết ra để mọi người cùng biết .
ĐKT
24.06.2009
_________________________________________
1. Tư liệu điền
dã của nhà nghiên cứu Lê Nguyễn Lưu và khoa Sử trường Đại Học Sư phạm Huế .
2. Hồng Đức bản
đồ , lập năm Hồng Đức thứ 2 (1490 ) đã có tên các làng xã này.
3. Tư liệu điền dã vùng Huế về thời kỳ
Tây Sơn ( Nhà Xuất bản Thuận Hóa , Huế , 1999 ).