TẠI SAO CHÍNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HOÀ DỪNG VIỆC NÉM BOM TÁI CHIẾM HOÀNG SA SAU TRẬN HẢI CHIẾN NGÀY 19.1.1974.



Cuộc tấn công xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam xảy ra đã 43 năm, quần đảo tiền tiêu án ngữ đường vào vịnh Bắc bộ đã bị quân xâm lược Trung Cộng chiếm đoạt. Đã 43 năm mãnh đất của cha ông để lại, nhưng lớp hậu sinh đã không giữ được khiến nó lọt vào tay ngoại bang, cũng không ai dám nói là bao giờ mới đòi lại được. Nhưng đa số lớp hậu sinh đã gần như quên lãng sự kiện này, phải chăng họ đang bận bịu một cái gì đó trọng đại hơn, hay họ chỉ biết vinh thân phì gia mà quên đi dã tâm thôn tính nước ta từ ngàn đời nay của quân xâm lược phương Bắc !

Ngay từ thế kỷ 16, khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp hình thành nên một vương quốc Nguyễn ở xứ Đàng trong hoàn toàn biệt lập với với xứ Đàng Ngoài của vua Lê – Chúa Trịnh, thì đất nước ta liên tục xãy ra những cuộc nội chiến tranh giành quyền lực của hai thế lực này . Sau đó lại là cuộc nội chiến của Nhà Nguyễn với nhà Tây Sơn, giữa Tây Sơn và chúa Trịnh với những cuộc chiến dai dẳng kéo dài hàng trăm năm khiến cho dân tình khốn khổ, đất nước bị tàn phá, tiềm lực và sức mạnh quốc gia bị phân tán và ngày càng tụt hậu. Tới đầu thế kỷ 19 nhà Nguyễn đã đưa đất nước trở lại thời thịnh vượng, thời vua Minh Mệnh(1820) nước ta là cường quốc mạnh nhất khu vực. Nhưng do không bắt kịp tiến bộ kỹ thuật của thế giới với những cuộc cách mạng công nghiệp đang bùng nổ tại phương Tây một lần nữa đất nước ta lại tụt hậu. Và khi người Pháp xâm lược ta lại thua và bị họ xâm chiếm. Đây cũng là thực trạng của hầu hết các nước trong khu vực, nên họ cũng đều bị thực dân phương Tây xâm chiếm.

Từ những năm đầu của thế kỷ 20, khi thế giới đã bắt đầu hình thành nên nhiều thế lực nước lớn chia nhau thống trị và không chế nhiều khu vực trên thế giới thì Việt Nam ta cũng lọt vào cặp mắt dòm ngó của các thế lực này. Mặc dù dã tâm của các nước lớn được núp bóng dưới nhiều học thuyết và chiêu bài chính trị khá hoa mỹ như  đồng minh + đồng chí nhưng tựu trung họ đều xem nước ta như một món hàng để họ mặc cả, trao đổi và kềm chế lẫn nhau trong ván bài chính trị thế giới. Chiêu trò để tranh giành nhau ảnh hưởng tại một nước nào đó, là họ sẽ không tiếc tiền xây dựng tại đó những thế lực cát cứ địa phương, xây dựng nên những vị “anh hùng dân tộc” biết nghe lời, chịu phụ thuộc và sai khiến của họ. Thậm chí chỉ trong một nước có tới 3 – 4 thế lực khác nhau, đánh nhau dưới sự trợ giúp của nhiều nước lớn khác nhau. Mà những gì đang xãy ra tại Xiri, I Rắc là một minh chứng cho những gì đã xãy ra tại khu vực Đông Nam Á vào những năm đầu thế kỷ 20. Các thế lực cát cứ địa phương này ra sức huy động và bòn rút sức dân đổ vào những cuộc nội chiến nhằm tranh giánh quyền lực; họ cũng tung ra học thuyết có nguồn gốc từ bên Tây, những chiêu trò đánh động lòng yêu nước để mua chuộc và tập hợp người dân trong vùng đất mình cai quản. Nhưng cuối cùng cũng không phải ai cũng nhận ra được mình chỉ là những con rối trong tay của các nước lớn, cái được của những kẻ này là được ăn trên ngồi trốc, vinh thân phì gia. Nhưng cái mất là rất lớn, chính họ đã khiến cho đất nước bị tàn phá, đẩy dân tộc vào những cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Cuối cùng đất nước bị phụ thuộc và biến thành một món hàng trao đổi trong tay những nước lớn.

Ngay từ trước khi nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa của Mao Trạch Đông được thành lập được thành năm 1949 - Mao đã là một đồng minh thân cận với với nước Liên Xô của Xtalin. Với vai trò là những nước lớn, họ đã xác định những lợi ích và những vùng ảnh hưởng của đất nước họ, họ đã bắt tay nhau phân chia vùng ảnh hưởng của họ trên thế giới, đồng thuận ủng hộ những việc làm của nhau trên các diễn đàn thế giới. Cho nên trong hội Nghị của những nước thắng trận bàn việc phân chia lại thế giới sau thế chiến thứ hai (thực chất là chia chác) tại San Francisco (Mỹ) năm 1952 – hội nghị này nước Trung Hoa của Mao không được mời tham dự. Sau khi đại hội bàn việc chia chác những vùng đất ở viễn đông đã từng bị Nhật xâm chiếm trong thế chiến thứ II,  đại diện Liên Xô đã đề nghị giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của chúng ta cho nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa của Mao Trạch Đông quản lý; nhưng đã bị Mỹ phản đối. Sự việc phải đem ra biểu quyết nhưng trong 52 nước tham dự hội nghị chỉ có Liên Xô và Ba Lan đồng ý giao cho Mao, hội nghị đã quyết định theo số đông là đồng ý giao cho chính phủ Bảo Đại (có đại diện tham gia hội nghị này) tiếp quản hợp pháp. Qua sự kiện này chúng ta biết thêm một sự kiện là chính những người anh em vĩ đại Xô – Trung đã chia chác đất nước ta ngay từ năm 1952 vì quyền lợi của chính họ.

Sau cuộc chiến Mậu Thân năm 1968, người Mỹ xét thấy không thể thắng trong cuộc chiến tại VN nên họ đã tìm các bắt tay với Trung Hoa và qua nhiều kênh ngoại giao khác nhau họ đã nhận được tín hiệu từ phía Trung Hoa. Tháng 2 năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã thăm nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Trung Hoa, hội đàm với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai – họ đã ký kết nhiều thoả thuận với nhau, trong đó có những thoả thuận về cuộc chiến tại VN mà không cần tham khảo ý kiến của người VN. Chấm dứt thời kỳ xung đột quyền lợi và tranh giành vùng ảnh hưởng trong khu vực với nhau; giới lãnh đạo nước Trung Hoa cộng sản đã một lần nữa sẵn sàng bán đứng những người anh em đồng chí VN của mình vì quyền lợi của đất nước họ. Và như báo chí thế giới đã bình luận “cuộc kháng chiến chống Mỹ” của VN đã kết thúc từ ngày 29.2.1972 sau cái bắt tay của Mao Trạch Đông và Richard Nixon tại Thượng Hải. Những gì xãy ra sau đó về cuộc chiến tại VN đã được quyết định hoàn toàn sau cái bắt tay này và họ đã phân chia nhau khu vực ảnh hưởng tại Đông Nam Á, trong đó có biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Quyền định đoạt vận mệnh đất nước và biển đảo không còn thuộc quyền định đoạt của người VN chúng ta !

Những người lãnh đạo các chính thể của hai miền Nam – Bắc vào thời kỳ này và hiện nay; không thể không biết câu chuyện này !

Trong những bí mật của hai bên ký kết năm 1972, mà theo nhiều nguồn thông tin khác nhau của nước ngoài kể cả thông tin công khai của phía Trung Quốc – theo đó người Mỹ đã đồng ý bán đứng hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa của VN cho Trung Quốc. Cụ thể ở đây là nếu hải quân Trung Quốc tấn công hai quần đảo này của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà thì hạm đội 7 của Mỹ sẽ không can thiệp. Trong khi tiềm lực quân đội và nhất là Hải quân của Việt Nam Cộng Hoà không phải là đối thủ của hải quân Trung Hoa. Tuy biết rằng sau khi người Mỹ rút đi đã để lại một khối lượng khi tài quân sự khổng lồ cho VNCH, nhưng trong cuộc chiến không phải cứ là đao to búa lớn là thắng. Và quan trọng hơn là đồng tiền để nuôi bộ máy quân sự của VNCH là do người Mỹ viện trợ, nên họ đã quyết định tất cả. Ngoài ra tuy người Mỹ đã rút đi nhưng họ để lại một bộ phận rất lớn cố vấn quân sự để điều hành toàn bộ !

Cho nên với những gì xãy ra hai năm sau đó tại quần đảo Hoàng Sa là đương nhiên thôi, ngày 29.2.1974 khi trận hải chiến Hoàng Sa nổ ra, chính quyền VNCH đã cầu cứu người Mỹ giúp đỡ, nhưng hạm đội 7 của Mỹ đóng quân gần đó đã im lặng. Mặc cho quân đội đồng minh của mình bị quân Trung Hoa bắn phá. Và hải quân của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Trung Hoa đã chiếm đóng quần đảo này của VN từ đó cho tới nay.

Thời gian gần đây nhất vào dịp tưởng niệm 43 năm những người lính VNCH đã “Vị quốc vong thân”, báo giới và cộng đồng mạng đã có dịp ôn lại sự kiện này; nhưng có khá nhiều ý kiến với cái nhìn thiên kiến do không có kiến thức, không nắm bắt được sự kiện và nhất là do không khách quan đã khiến cho việc đánh giá một sự kiện một hiện tượng lịch sử hoàn toàn sai lệch. Một số ý kiến của các vị có tham gia cuộc chiến năm 1974 với tư cách người lính như lính hải quân, lính không quân (phi công) – cũng hoàn toàn sai lệch khi họ cho rằng sở dĩ ông Thiệu không dám không kích tái chiếm Hoàng Sa sau ngày 19.1.1974 là do các tướng lĩnh hèn nhát, ông Thiệu hèn và sợ mất chức tổng thống. Họ cho rằng tiềm lực không quân của VNCH lúc ấy là ăn đứt quân Trung Cộng, nào là hàng trăm chiếc F.5 và A. 37 hiện đại nhất khu vực lúc ấy đã tập trung chờ lệnh tấn công tại sân bay Đà Nẵng. Họ cho rằng với ưu thế vượt trội về máy bay thì chỉ cần có lệnh là họ sẽ chiếm lại quần đảo này trong vài tiếng .v.v.và.v.v.

Nhưng ngoài những phân tích về tầm vĩ mô và mặt chiến lược như trên đây. Mới đây cũng đã có một công bố sẽ giúp giải đáp cho những nhận định sai lạc trên đây và giúp cho những nhà sử học giải đáp được một sự thật lịch sử một cách chính xác nhất.

 Nhân dịp kỷ niệm 43 năm cuộc hải chiến Hoàng Sa, chiều 19.1. 2016 tại trụ sở UBND huyện Hoàng Sa (132 Yên Bái, Đà Nẵng), chính quyền huyện này đã tổ chức gặp mặt 12 nhân chứng đã từng công tác, sinh sống trên quần đảo Hoàng Sa trước ngày 19.1.1974. Tại đây, tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn – Phó viện trưởng viện nghiên cứu chiến lược Đà Nẵng (một người chuyên nghiên cứu, thu thập các tài liệu về Hoàng Sa và đóng góp các tư liệu, bằng chứng quý hiếm cho huyện đảo này) đã công bố nhiều tình tiết quan trọng liên quan đến hải chiến Hoàng Sa 19.1.1974.
Theo tiến sĩ Sơn, ông đã đi 3 thư viện lớn ở Mỹ và tiếp xúc với nhiều nhân chứng tại Mỹ, qua đó đã thu thập được nhiều thông tin quý giá. Đã tiếp cận được một số tài liệu mật của chính phủ Mỹ mới giải mật trong đó có nhiều bức mật điện tuyệt mật cho thấy nhiều dữ liệu về Trường Sa - Hoàng Sa mà sử sách đưa ra trước đây là chưa chính xác.
Những sự kiện lần đầu mới được ông công bố đó là “Một bức điện đã được giải mã cho thấy Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã dừng việc ném bom tái chiếm Hoàng Sa sau hải chiến 19.1.1974 để ngăn Trung Quốc đánh xuống Trường Sa...”
Việc “các chiến hạm của VNCH đã bắn lẫn nhau do phối hợp tác chiến không chính xác. Nguyên nhân do khi Mỹ bàn giao tàu cho VNCH thì tháo hết đồ tác chiến điện tử và không tổ chức thực tập tác chiến hợp đồng cho các tàu tác chiến khi có sự cố mà chỉ dùng như tàu tuần duyên.”

Ông công bố 2 bức điện mật của Đại sứ Mỹ, một bức gửi về Mỹ sáng 20.1.1974 và một bức gửi về sáng 21.1.1974. Một bức gửi về tướng trợ lý cho ông Henry Kissinger. Bức thứ 2 gửi cho Nhà Trắng. Theo đó, thông tin cho biết sau khi Hoàng Sa bị chiếm thì VNCH đã chuẩn bị 5 phi đội máy bay tập hợp tại Đà Nẵng để chuẩn bị đánh lại Hoàng Sa.
Bức điện thứ nhất gửi cho trợ lý ông Kissinger từ Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn cho hay lúc đó Ngoại trưởng Vương Văn Bắc xác nhận Tổng thống Thiệu hủy việc ném bom ở Hoàng Sa kèm đề nghị Mỹ ủng hộ VNCH vì khi Hoàng Sa bị chiếm, VNCH phát tín hiệu cầu cứu mà Mỹ không cứu.
Do đó, ông Thiệu đề nghị ông Vương Văn Bắc gửi điện cho phía Mỹ đưa ra một số giải pháp: 
Thứ nhất là đồng ý cho VNCH đưa vấn đề ra Hội đồng Bảo an (nhưng phía Mỹ ngăn chặn không cho Hội đồng Bảo an ra một nghị quyết lên án Trung Quốc).
Thứ hai là đề nghị Mỹ ủng hộ đưa vấn đề ra tòa án quốc tế (nhưng Mỹ không ủng hộ việc tổ chức một cuộc họp báo và ra nghị quyết để chống lại Trung Quốc).
Thứ ba là Mỹ không cứu VNCH bằng Hoàng Sa mà sẽ tìm mọi cách để ngăn chặn không cho Trung Quốc đi xuống Trường Sa, tức là lúc đó họ đã biết Trung Quốc sẽ tấn công xuống Trường Sa nên họ dùng từ "cứu VNCH không cho Trung Quốc xuống Trường Sa".
Thứ tư là thỏa thuận VNCH và Mỹ dùng mọi cách bằng ngoại giao để ép Trung Quốc trao trả tù binh cho VNCH trước Tết.
Một vấn đề nữa là một người Mỹ bị bắt lúc ở Hoàng Sa là nhân viên tình báo của Mỹ nhưng thời điểm đó Đại sứ Mỹ không biết là ai.
Một việc quan trọng nữa là Mỹ yêu cầu Trung Quốc không được tấn công truy đuổi bắn giết những người lính VNCH trở về.

Tại buổi thuyết trình này, tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn  nhận định: “Qua những tài liệu chúng tôi tìm kiếm thì thấy rằng đó là cuộc chơi của những nước lớn và tất cả đều kiềm tỏa lẫn nhau vì lợi ích của các bên. Và họ biết rằng thế nào Trung Quốc cũng đánh xuống Trường Sa thời điểm đó, nhưng Trung Quốc chắc đã biết động thái của Mỹ nên đã dừng lại và tiến hành đánh Trường Sa năm 1988".
Đây có lẽ là thông tin chính xác nhất và có cơ sở khoa học nhất, giải mã được lý do :

- Tại Sao chính phủ Việt Nam Cộng Hòa dừng việc ném bom tái chiếm Hoàng Sa sau trận hải chiến ngày 19.1.1974 !

ĐKT
 10.1.2014


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét