Tác phẩm “Châu ô cận lục” và sự ngộ nhận lịch sử !

Tác phẩm Ô Châu Cận Lục - bản dịch của Trấn Đại Vinh.


    Sau khi Nhà Hậu Lê – Hán tự  家後黎・後黎朝 , (1427-1789) được thành lập, đã mở ra một thời đại tự chủ mới cho dân tộc, cùng với việc an dân đã có những công trình học thuật lớn ra đời như: Dư địa chí, Đại Việt sử ký toàn thư, Bản thảo thực vật toàn yếu, Đại thành toán pháp, Hí thường phả lục, Lĩnh nam chích quái, Thiên Nam dư hạ tập, Hồng đức bản đồ.    
    Giữa những thành tựu học thuật của thời kỳ phục hưng văn hóa ấy, không thể không nhắc đến "Ô châu cận lục" của Dương Văn An. Đây là cuốn địa phương chí quan trọng đầu tiên viết về vùng đất Thuận Hóa của nước Việt chúng ta ở thế kỷ XVI. Đây là một tác phẩm khoa học có giá trị văn học lớn. Tuy biết rằng trước đó Nguyễn Trãi đã viết cuốn cuốn Dư địa chí – Hán tự  輿地誌 (1435) , đây chính là tác phẩm "điạ lý học lịch sử đầu tiên của Việt Nam. Nhưng xét về mặt địa phương chí và lịch sử vùng Thuận Hóa thì đây là cuốn sách quý giá có giá trị cực kỳ lớn lao với mọi từng lớp cư dân xứ Thuận Hóa từ xưa đến nay.
     - Châu ô cận lục (Hán tự: 烏州近, có nghĩa  "ghi chép về Ô Châu gần đây") do Dương Văn An (楊文安) (1514 1591) viết từ năm 1553, sửa chữa và ấn hành vào năm 1555, dưới triều vua Mạc Tuyên Tông. Là một cuốn sách Địa lý (chí) viết về một dãi đất từ Quãng Bình đến Bắc Quãng Nam vào nửa đầu thế kỷ XVI dưới thời Lê – Mạc.
    - Dương Văn An sinh năm 1513 người làng Tuy Lộc huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình ngày nay. Nhưng ông cư trú ở làng Phù Diễn huyện Từ Liêm, Hà Nội. Năm 34 tuổi (1547) đời vua Mạc Phúc Nguyên đỗ đồng tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1547), làm quan đến phó đô (ngự sử), hàm Thượng thư, tước Sùng nham hầu, được phong tặng tước Tuấn quận công
    Theo tự sự của chính tác giả trong lời bạt của cuốn sách thì ông viết hoàn chỉnh cuốn sách Châu ô cận lục vào niên hiệu Cảnh Lịch thời nhà Mạc - ngày rằm tháng sáu năm Ất Mão (1555). Khi đang giữ chức Đô cấp sự Trung lại Khoa, tước Sùng Nham Bá, trong lúc đang về cư tang ở quê nhà. Nhưng theo nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh (ông là tác giả của bản dịch cuốn sách do nhà xuất bản Thuận hóa – Huế xuất bản năm 2009) , thì đúng ra niên hiệu khi tác giả hoàn thiện cuốn sách là Quang Bảo vì Mạc Phúc Nguyên năm 1554 đã không còn giữ niên hiệu Cảnh Lịch, theo dịch giả thì có lẽ Dương Văn An lúc này đang về cư tang ở quê nhà đã không biết sự thay đổi niên hiệu này của Vua nhà Mạc. Theo tôi hiệu đính này của học giả Trần Đại Vinh là hoàn toàn chuẩn xác vì vua Mạc Phúc Nguyên (1546 – 1561) có tới 3 niên hiệu như sau : Niên hiệu Vĩnh Định (1547), niên hiệu Cảnh Lịch (1548 – 1553), niên hiệu Quang Bảo (1554 – 1561); thời gian ông về cư tang là năm 1553 và ông ở quê nhà cư tang ba năm .
   Theo tác giả thì nhân dịp về cư tang ở quê nhà lúc ông 40 tuổi (năm 1553), trong ba năm rảnh rỗi ấy đã được dùng vào việc "đọc khắp các loại sách", ông đã gặp được hai bản chép tay của hai nho sinh đồng hương viết về hình thế sông núi , sản vật , phong tục tập quán và các nhân vật nổi tiếng ở vùng này. Ông liền khảo cứu thêm và bổ sung cũng như lược bớt những chổ rườm rà và đặt tên mới là Ô Châu Cận Lục, cũng chỉ cốt là để dùng tham khảo cho mình
   Công trình của ông hoàn tất vào năm 1555, tuy nhiên có ý kiến cho rằng do bộ sách này ra đời trong giai đoạn đất nước đang lâm vào chiến tranh loạn lạc nên chưa hề được khắc in một cách chính thức. Tuy thế sách vẫn được lưu hành qua những bản chép tay và giá trị lịch sử của nó vẫn được khẳng định qua hàng trăm sau .
    Như vậy là Dương Văn An, nhân đọc bản thảo sách chép về hai phủ Tân Bình và Triệu Phong có một tầm nhìn xa rộng, toàn diện hơn về toàn bộ vùng đất Thuận Hóa, đã tham khảo thêm các nguồn tài liệu viết, đồng thời lại khai thác nguồn tài liệu văn hóa dân gian truyền miệng để viết Ô châu cận lục thành một tác phẩm địa phương chí hoàn chỉnh. Nhiều học giả nổi tiếng sau này như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú khi soạn các bộ sách có giá trị lịch sử cao vẫn cũng lấy cuốn Ô Châu Cận Lục làm tài liệu quan trọng.
     Công trình địa phương chí nầy gồm sáu quyển :
     - Quyển một giới thiệu mô tả núi sông xứ Thuận Hóa
    - Quyển hai nói về sản vật xứ Thuận Hóa: thổ sản, lâm sản, hải sản, hoa trái chim muông, cầm thú.
     - Quyển ba có tên là : Bản đồ , liệt kê danh mục các phủ huyện, châu, xã , làng  xứ Thuận hóa, và bàn về phong hóa xứ Thuận Hóa. Đây là quyển quan trọng nhất.
    - Quyển IV nói về thành thị xứ Thuận Hóa, liệt kê, mô tả thành, chợ, trạm, bến bờ.
    - Quyển V giới thiệu, mô tả các thắng cảnh, chùa tháp, đền miếu xứ Thuận Hóa.
    - Quyển VI bàn về chế độ quan chức xứ Thuận Hóa và ghi chép tiểu sử của 102 nhân vật quê ở Thuận hóa từ đầu thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVI : những người đỗ đạt cao, quan văn, quan võ, những người trung nghĩa, tiết hạnh.
     Nguyên do của bài viết này là vừa qua nhân dịp về quê tham dự lễ Chạp mộ thường niên của dòng Họ (tháng 9/ 1014), theo sự giới thiệu của của một vài vị trong giới nghiên cứu sử có một số sinh viên khoa Lịch sử của Trường Đại học Sư Phạm Huế đến tìm tôi, xin tôi giải thích và hiệu đính cho các em một số địa danh làng xã trong cuốn sách Ô châu cận lục. Đồng thời giúp các em lý giải về khởi thủy một số làng (xã) trong tỉnh Thừa Thiên – Huế; cùng một số vấn đề trong các luận văn tốt nghiệp của các em. Vì không có thời gian nên tôi chỉ dành cho các em một thời gian ngắn, sau đó có thể các em đã hiểu lầm là tôi khó khăn nên đã nhờ các thầy của các em là giảng viên khoa sử của trường nói chuyện với tôi qua điện thoại. Tôi đã giải thích với các thầy và hứa sẽ giúp đỡ các em .
     Nay cũng vì không có thời gian nên qua bài viết ngắn này tôi có một vài ý với các em như sau:
   1 . Như tôi đã giải thích cho các em, trong các bản dịch của cuốn Ô Châu Cận Lục của tất cả các học giả từ trước năm 1975 cho đến nay, theo tôi thì bản dịch của nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh và nhóm cộng tác, do nhà xuất bản Thuận Hóa Huế phát hành năm 2009 - là có giá trị thực tiễn nhất. Vì tác giả là người Huế - đang sống tại tp Huế, là một cán bộ giảng dạy văn hóa Hán – Nôm tại nhiều trường Đại học. Đồng thời ông cũng là một nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa Hán – Nôm có nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị cao. Cái giá trị nhất trong bản dịch này là dịch giả đã có rất nhiều cuộc điền giã, ông và các cộng sự đã đi và nghiên cứu ghi chép từ thực địa để chú giải và hiệu đính cho bản dịch của mình chứ không phải từ bàn giấy, như những người khác. Từ thật tế đó ông có thể biết một ngôi làng to nhỏ lớn bé thế nào, đổi tên mấy lần và hiện nó nằm ở đâu ? Còn hay bị biến mất do thời gian, do chiến tranh ?
      2 . Vấn đề thứ hai là sự ngộ nhận về lịch sử vùng miền : Trong một số dịp gần đây khi tôi được mời tham dự một số cuộc lễ của các dòng Họ tại khu vực huyện Phú Vang, và một số các cuộc gặp gỡ của các Ban Liên Lạc của một số Tộc Họ tại thành phố Huế. Chúng tôi có nghe một vài vị diễn giả đại diện cho dòng họ mình phát biểu trên diễn đàn rằng dòng Họ mình vào lập nghiệp và định cư tại vùng đất Thuận Hóa từ những ngày đầu vùng đất này được trở về nước Đại Việt (năm 1307).  Nhưng khi được hỏi, chúng tôi sau khi xâu chuỗi lại các sự kiện và hệ thống hóa lại tiến trình hình thành và phát triển của địa phương đó qua chính sử và khẳng định lại với họ rằng thời điểm đó các vị Thủy Tổ của dòng Họ quý vị chưa có ở đấy - thì họ im lặng ?
    Một số vị lại cho rằng họ đã căn cứ vào Gia Phả, nhưng chúng tôi cũng chứng minh được rằng Gia phả không thể khẳng định được điều này, vì đa phần các Gia phả ở Thừa Thiên – Huế hiện nay đều mới lập khoảng 200 năm trở lại. Phần lớn các bộ Gia phả, nhất là trong phần giới thiệu nguồn gốc tộc Họ, được ghi lại theo trí nhớ của nhiều đời sau, theo khẩu truyền, các sự kiện trình bày theo cảm quan, mơ hồ, lẩn lộn về thời gian. Một thực tế là nguồn gốc của các dòng Họ nhập cư vào Thuận Hóa vào giai đoạn này (1307-1446) hiện rất mờ nhạt. Cả một thời gian dài sau năm 1307, kể từ khi người Việt ta vào định cư ở vùng đất này với thời gian gần 200 năm sau đó đã không có một văn bản hoặc tư liệu nào của các dòng Họ được ghi chép vào thời gian này được lưu lại cho tới ngày nay. Vì qua nhiều cuộc điền dã của các nhà khoa học lịch sử, của các nhà nghiên cứu lịch sử Huế…, chúng ta đã không tìm thấy bất cứ một tư liệu nào được ghi chép vào thời gian này đang còn lưu giữ ở các dòng Họ trên toàn tỉnh Thừa Thiên – Huế cả !
   Tức là con người tạo ra lịch sử, chứ lịch sử không thể tạo ra những con người, dòng họ ... được.  Nếu hiểu như các vị thì đấy là cái mà hiện nay người ta gọi là dã sử, là truyền thuyết đấy mọi người ạ !
   Theo đó, năm 1306, vua Champa là Chế Mân khi cưới công chúa Huyền Trân đã dâng hai châu Ô, châu Lý làm quà sính lễ. Vua Trần Anh Tông tiếp thu hai châu vào Đại Việt, đổi tên là châu Thuận và châu Hóa. Sau khi trở về Đại Việt, triều đình đã tổ chức di dân vào vùng đất mới, nhưng một thời gian dài sau đó những cư dân đầu tiên vẫn chỉ là những người lính vào tiếp quản vùng đất vừa được Nhà Trần tiếp nhận và những người đi theo đoàn quân làm công tác an dân, chủ yếu là quan lại, cùng một số rất ít cư dân vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã dám mạo hiểm vào lập nghiệp ở vùng đất mới. Vì như chính sử ghi lại – nhiều năm sau, khi có các cuộc nổi loạn của cư dân bản địa chống lại chính quyền mới, Nhà Trần đã cử quan Hành Khiển Đoàn Nhữ Hài vào chấn chỉnh lại việc “ an dân ”, thì cư dân người Việt lúc này mới chỉ có“ ba thôn” (là thôn La Thủy, thôn Tác Hồng và thôn Đa Bồng) như sử chép .   
   Mãi tới cuối thế kỷ 14 cư dân mới bắt đầu đông dần lên, Nhà Trần đã lập tại vùng đất Hóa Châu 7 huyện mới : Trà Kệ, Lợi Bồng, Sa lệnh, Tư Dung, Bồ Đài, Bồ Lãng và Thế Vinh với khoảng 40 làng, ấp, thôn, trại, sách. Nhưng chính sử hoàn toàn không có ghi chép tên hoặc địa danh một vùng, một làng, thôn, ấp nào cụ thể cả ?
   Hơn nữa, sau khi Vua Chế Mân chết (1307), Công Chúa Huyền Trân trở về Đại Việt (1308), quân Chiêm Thành lấy cớ này đã liên tục tấn công Châu Thuận, Châu Hóa , chiến tranh xảy ra liên miên . Đỉnh điểm là năm 1377, Vua Trần Duệ Tông vì mắc mưu trá hàng của địch đã tử trận tại kinh đô Đồ Bàn ( Bình Định ngày nay) khi đánh Chiêm Thành, quân Đại Việt đại bại rút chạy về Thăng Long, bỏ lại các vùng đất vừa chiếm được. Quân Chiêm thành đã chiếm lại Châu Thuận, Châu Hóa chiếm luôn Châu Tân Bình (Hà Tỉnh và Nghệ An ngày nay) suốt 12 năm, quân Chiêm Thành đã tàn sát và xua đuổi hầu hết người Việt khỏi vùng Thuận Hóa. Mãi cho tới tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390) trong khi đang tấn công thành Thăng Long,Vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga bị quân Đại Việt bắn chết. Quân Chiêm Thành thua trận rút khỏi thành Thăng Long và rút khỏi vùng đất hai châu Hoan - Ái và vùng Thuận Hóa. Quan quân Đại Việt và người dân mới trở về tái chiếm lại vùng Thuận Hóa và mới bắt tay xây dựng lại các làng xóm mới trên vùng đất này. Với tư liệu lịch sử này thì các làng xóm được cho là đã thành lập trước mốc thời gian này liệu có tồn tại hay không, hay chỉ là những câu chuyện truyền thuyết. 
   Sau mốc thời gian này cũng trùng với thời điểm lụi tàn của Triều đại Nhà Trần, Nhà Hồ lên kế nghiệp trong một thời gian ngắn (1400 – 1407); sau đó đất nước bị Nhà Minh đô hộ hơn 20 năm (1407 – 1428). Thì đó là cả một câu chuyện dài trong một giai đoạn đau thương và đầy biến động nhất của lịch sử vùng đất này; mà câu chuyện để hình thành nên được những điểm dân cư, những làng xóm không phải là câu chuyện dễ dàng - nếu không muốn nói là không thể ?
     Lợi dụng sau khi nhà Hồ thua trận và mất nước, năm 1408 người Chiêm Thành đã vượt đèo Hải Vân tái chiếm lại Thuận Hóa. Họ lại với sách lượt cũ là xua đuổi người Việt ra khỏi vùng Thuận Hóa, áp dụng trở lại những chính sách cai trị và an dân của người Champa. Mãi cho tới năm 1428, Lê Lợi sau khi đánh thắng quân Minh đã lên ngôi Hoàng Đế gọi là Lê Thái Tổ, hiệu Thuận Thiên - đất nước trở lại thời thịnh trị. Cuối năm 1428, vua Lê Thái Tổ mới cử quan quân vào Thuận Hóa đánh bại người Chiêm Thành lấy lại Thuận Hóa - một lần nữa người Việt ta lại bắt tay xây dựng lại Thuận Hóa từ con số không. Công cuộc Nam tiến được Nhà Hậu Lê tiếp tục, Vua Lê Thái Tổ đã sai các trung thần vào ổn định xứ Thuận Hóa và bắt đầu trở lại các cuộc di dân vào Thuận hóa. Đây lại cũng là một mốc thời gian quan trọng mà những người viết lịch sử các dòng Họ tại Huế phải biết và đừng nên nhầm lẫn !
    Nhưng lịch sử vùng đất này lại một lần nữa không phải đã là bình yên. Lợi dụng triều nhà Hậu Lê mới thành lập chưa ổn định, quân Chiêm Thành đã nhiều lần vượt đèo Hải Vân tấn công châu Hóa. Họ luôn luôn đánh phá và quấy nhiễu vùng này làm cho cư dân không thể an cư lạc nghiệp được và người Chiêm cũng đã từng chiếm lại được Thuận Hóa vài lần từ tay quan quân nhà Hậu Lê. Năm Quý Sửu (1433) lợi dụng dịp vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) băng hà triều đình đang lo tang vua; quân Chiêm thành đã tấn công chiếm lại được Châu Hóa. Mãi tới năm 1446 dưới thời vua Lê Nhân Tông, nhà vua đã cử đại quân chủ động tấn công quân Chiêm Thành (trong một trận chiến đã giết được vua Chiêm là Bí Cai), đẩy lui quân Chiêm ra khỏi xứ Thuận Hóa. Đây mới là mốc thời gian quan trọng nhất và chính thức của lịch sử các vùng đất tại châu Hóa xưa và tỉnh Thừa Thiên - Huế ngày nay. Vì chỉ sau mốc thời gian này, các điểm dân cư, các ngôi làng, sau đó là các dòng họ mới có thể hình thành được một cách chính thức trên vùng đất này ! 
   Nhưng tới năm 1469 người Chiêm lại tấn công Châu Hóa. Nhưng tình hình Đại Việt lúc này đã ổn định; vị vua trị vì nhà Hậu Lê (Lê sơ) lúc này là Lê Thánh Tông (146-1497) một người khá uyên bác; đã tổ chức binh lực đưa vào Thuận Hóa, vua cũng trực tiếp cầm quân chống lại cuộc tấn công của quân Chiêm. Binh lực nhà Hậu Lê lúc này khá mạnh, sau vài trận chiến quân Chiêm tan vỡ và tháo chạy. Nhân cơ hội này quân Đại Việt đã tổ chức truy kích vào tận kinh đô Chiêm Thành; trong trận chiến cuối cùng năm 1471- quân Đại Việt đã chiếm được kinh thành Đồ Bàn của người Chiêm, bắt vua Chiêm là Bàn Trà Toàn đem về Thăng Long. Quân Đại Việt đã phá hủy và đốt phá hoàn toàn thành Đồ Bàn của người Chiêm, tấn công và đuổi người Chiêm tới đèo Cù Mông (thuộc phía Nam tỉnh Bình Định ngày nay) mới dừng lại. Sau chiến thắng này cương thổ nước Đại Việt đã kéo dài tới phía Nam tỉnh Bình Định ngày nay; vùng đất Thuận Hóa không còn là vùng đất biên cương nữa. 
    Nhân dân vùng Châu Hóa hoàn toàn thoát khỏi nạn chiến tranh đã dần đi đến ổn định và bắt đầu giai đoạn phát triển, công cuộc di dân từ phía Bắc vào Thuận Hóa được tiếp tục đẩy mạnh. Hàng loạt các ngôi làng mới được thành lập trong dịp này, như : Duy sơn, Tân chu, Nghi giang, Diêm trường, Phụng chánh, Cự lại, Kế chủng (Kế sung), Thái dương, Hòa duân , Hà cùng (An dương), Triều sơn, Thanh cần, La Khê, Bao vinh, Đức bưu, Dương Xuân, Phổ Lại, Đại Lộc, Kế Môn, Phò Trạch, Hương Triền (Thanh Hương), Đàm bổng (Ưu Điềm ) ....(theo Hồng Đức bản đồ, lập năm Hồng Đức thứ 2 (1490 ) đã có tên các làng xã này). Đây cũng là các ngôi làng cổ nhất của xứ Thuận Hóa và tỉnh Thừa Thiên – Huế hiện nay và phần lớn các ngôi làng này vẫn tồn tại và phát triển thành những ngôi làng lớn hoặc thành một xã của nhiều vùng trong tỉnh Thừa Thiên – Huế hiện nay.
    Năm Bính Tuất (1466) Vua Lê Thánh Tông tổ chức cải cách hành chánh, đặt 13 đạo Thừa Tuyên trong cả nước, xứ Thuận Hóa được gọi là Thừa Tuyên Thuận Hóa, gồm có hai phủ là Phủ Tân Bình và Phủ Triệu Phong, ba huyện Kim trà, Đan Điền và Tư Vinh nằm trong phủ Triệu Phong là toàn bộ diện tích tỉnh Thừa Thiên – Huế hiện nay. Các vị khai canh làng xã, các vị khai canh – khai khẩn của các Họ Tộc được ghi nhận rất đầy đủ trong giai đoạn này. Phần lớn họ là quân lính hoặc tướng lĩnh trong các đội quân, khi yên việc quân đã tự nguyện xin ở lại khai thác vùng này, hoặc có một số là chức sắc phụng chỉ triều đình ở lại trấn giữ vùng biên cương - đa phần họ đều xuất thân từ vùng đồng bằng Bắc bộ, vùng duyên hải Bắc bộ và Bắc Trung bộ như vùng trấn Sơn Nam, hai châu Hoan - Ái .    
   3 . Một sự ngộ nhận thứ hai là sự ngộ nhận một sự kiện lịch sử hoặc một nhân vật lịch sử; điều này cũng thường gặp trong một số Gia phả của các dòng Họ :
    Như chúng ta đã biết, nhà Nguyễn bắt đầu dựng nghiệp ở đất phương Nam từ vị Chúa đầu tiên là Chúa Tiên – tức Nguyễn Hoàng. Sau khi cha ông là Nguyễn Kim mất, ông từ bỏ trấn Thanh Hoa (Thanh Hóa và Ninh Bình ngày nay), xin vua Lê vào trấn thủ vùng Thuận Hóa lần đầu - chỉ với mục đích duy nhất là tránh sự truy sát của người anh rể Trịnh Kiểm - năm 1558, khi ông chỉ mới 34 tuổi. Khi mới vào ông có đem theo một số trung thần là người cùng quê Thanh Hóa, sau đó nhằm kế lâu dài ông đã âm thầm khuyến khích và bảo trợ cho các cuộc di dân từ đồng bằng sông Hồng, sông Mã vào Thuận Hóa. Các đợt nhập cư đều được sử ghi chép lại, nên nguồn gốc các dòng họ tương đối rỏ ràng, năm tháng lập làng phần lớn được lưu lại. Nhưng chính xác tuyệt đối thì cần phải xem lại, vì theo tư liệu điền dã của chúng tôi, ngay bài Tựa mở đầu của phần lớn các Gia phả của các dòng Họ di cư vào Thuận hóa đợt này đã có sai sót, nhiều bản Gia phả đã có một vài sự ngộ nhận một cách rất mơ hồ.
    Các Bài Tựa này thường có câu mở đầu  Ngài khai canh họ ta theo Chúa Tiên vào Nam”. Chúa Tiên – tức Nguyễn Hoàng, nhưng Nguyễn Hoàng vào Nam tới ba lần, lần đầu và lần cuối cách nhau 42 năm. Không có bài Tựa nào nói rỏ được là Ngài Khai Canh của dòng Họ mình theo Chúa Tiên vào Nam lần nào, năm nào ? Họ đi theo Chúa với danh phận gì ?
     Nguyễn Hoàng đã làm cho Đàng Trong hưng thịnh và chính sự hưng thịnh này đã góp phần tạo nên trọn vẹn dáng hình của Tổ quốc Việt Nam như ngày nay. Đồng thời ông cũng là người đã đặt nền móng cho sự hình thành kinh đô Phú Xuân sau này và cũng chính ông là người có công mở đầu cho công cuộc Nam tiến thành công của dân tộc ta mấy trăm năm sau đó. Cũng chính vì ông là một nhân vật lịch sử quan trọng và nổi tiếng như vậy nên đã có nhiều sự ngộ nhận và ăn theo nhân vật lịch sử này được ghi chép trong một số bản Hương Phả, Tộc phả, Gia phả, một số bản ghi chép và điển tích đang được lưu giữ trong một số làng và dòng Họ ở khu vực tỉnh Thừa Thiên – Huế hiện nay .
    Theo chính sử, lần đầu năm 1558 Chúa Tiên vào Nam là đi lánh nạn tránh sự truy sát của Trịnh Kiểm, lần thứ hai năm 1570 sau khi ra thăm quê và bái yết Vua Lê, lần thứ ba là năm 1600 – sau khi ra mừng Chúa Trịnh đánh bại nhà Mạc khôi phục Thăng Long, bị Vua Lê giữ lại tới 7 năm để đi dẹp loạn cát cứ - là một cuộc chạy trốn thực sự của Chúa Tiên nhằm thoát khỏi vòng cương tỏa của Trịnh Tùng, lúc này ông đã 76 tuổi. Nguyễn Hoàng ở Ngôi Chúa thêm 13 năm và mất năm 1613, thọ 89 tuổi .
    Nhưng cái gốc, điểm tựa và bệ phóng cho sự phát triển và hưng thịnh đó, chính là mảnh đất Quảng Trị chứ không phải là xứ Thừa Thiên. Trong tác phẩm Những người bạn cố đô Huế, (tập VIII, NXB Thuận Hoá, Huế, 2001, tr. 185, 188) các học giả cũng nhắc đến bài viết của một kẻ thực dân nhưng chúng ta cũng nên biết kẻ bên kia nói gì về vị Chúa Tiên – người lập ra một triều đại mới của Việt Nam chúng ta, đó là câu nói của  A.Laborde, Công sứ Pháp tại An nam trước đây qua bài viết "Tỉnh Quảng Trị", rằng:
  - “ Nếu dòng họ nhà Nguyễn không xuất phát tại Quảng Trị, thì ít nhất sự nghiệp lịch sử của họ phải xem là có gốc từ mảnh đất này,
  Con người của triều đại này sinh ra từ đất Thanh Hoá, nhưng sự nghiệp của triều đại Nguyễn thì sinh ra từ đất Quảng Trị”
   Ông là người lập nên xứ Đàng Trong, lúc mới vào tháng 1 năm 1570, Nguyễn Hoàng lập dinh  làng Trà Bát, nằm gần Ái Tử, chếch về phía đông bắc (nay là hai làng Trà Liên Đông, Trà Liên Tây, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong). Gọi là Dinh Trà Bát.
    Năm 1600, sau khi từ Bắc trở về, ông dời dinh sang phía đông của dinh Ái Tử, gọi là Dinh Cát.
    Ông mất năm 1613, ban đầu mộ của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng táng ở vùng núi Thạch Hãn, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong (nay thuộc huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị), về sau được cải táng lăng mộ chuyển về Núi La Khê tức Khải Vận Sơn (nay thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế). 
   Qua phân tích trên chúng ta phải biết là Nguyễn Hoàng khi vào Nam xây dựng cơ đồ - ông hoàn toàn không sống ở khu vực là tỉnh Thừa Thiên – Huế ngày nay, khi mất ông cũng mất ở đất Quãng Trị và cũng được chôn cất ở Quãng Trị.
    Hơn nữa thời kỳ của Nguyễn Hoàng thì Dinh (hoặc Phủ) Chúa Nguyễn đều đóng ở Quãng Trị chứ không phải Thừa Thiên. Mãi cho tới năm 1636, khi Chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ về Kim Long (ngoại ô Huế), năm 1687 Chúa Nguyễn Phúc Thái dời phủ từ Kim Long về làng Phú Xuân (thành phố Huế ngày nay), thì Huế mới trở thành mãnh đất kinh kỳ.
    Cho nên theo tôi, khi người ta muốn ăn theo một sự kiện lịch sử hay một nhân vật lịch sử nào đó thì phải biết rõ sự hình thành sự kiện lịch sử hoặc nhân vật lịch sử đó. Đây cũng có thể là bài học đầu đời của những ai học sử, viết sử; để có thể con người ta trở thành những người chép sử chứ không phải là những người làm sử .
    Trên đây là vài dòng phân tích ngắn ngủi xin gởi đến các bạn sinh viên của khoa sử trường Đại học Sư Phạm Huế, cũng chỉ là vài góp ý thô thiển với các bạn trẻ và quý bạn đọc quan tâm về chủ đề này.
     Chúc mọi người luôn thành công trong cuộc sống./.
ĐKT
12.10.2014

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét