ĐỊA CHÍ ĐĂK LĂK DƯỚI MỘT GÓC NHÌN

Nhà bảo tàng các dân tộc Tây Nguyên tại TP Buôn Ma Thuột 
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

       Cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chính thức nào của các cơ quan chuyên môn về văn hóa của nhà nước, nghiên cứu về quá trình hình thành vùng đất là tỉnh Đăk Lăk ngày nay; cũng như thời gian và quá trình nhập cư của cộng đồng người Kinh lên vùng đất Tây Nguyên, được nhà chức trách tổ chức thẩm định, đánh giá, công nhận và công bố một cách chính thức. Có chăng chỉ là những nghiên cứu riêng biệt của từng cá nhân hoặc một vài tổ chức xã hội, tôn giáo, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu… có tâm huyết với vùng đất này.
      Có nghĩa là với một tỉnh lớn như tỉnh Đăk Lăk, mà cho tới nay vẫn chưa có được một cuốn Dư địa chí viết về toàn cảnh của tỉnh nhà ? Cho nên những người nghiên cứu sử và viết sách báo đành phải tự mình tìm hiểu, và khi chưa có một cuốn chính sử của địa phương mình để biết những gì được nói và những gì không được nói là một sự khó khăn và nguy hiểm cho chúng tôi khi viết ?
      Vì trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã tìm đọc, đã tiếp xúc với nhiều nguồn tư liệu khác nhau với nhiều chính kiến khác nhau, hay nói nôm na là đông tây kim cổ, Tây - Tàu , địch - ta đều có cả. Trong đó cũng không thiếu những điều tế nhị, thâm cung bí sử …., nhưng cái gì, điều gì được phép công bố và không được công bố; thì cho đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào của nhà nước quy định cụ thể việc này. Khiến cho một số bạn viết thường đùa là “vừa làm bài vừa run”, vì cứ mù mờ như hiện nay thì không biết mình phạm húy hoặc phạm trường quy lúc nào, và nếu lỡ vô tình phạm huý bị đuổi khỏi trường thi, thì không biết căn cứ vào đâu để bảo vệ mình trước các ông thầy ?    
     Gần đây tỉnh Giáo Hội Phật Giáo tỉnh Đăk Lăk, có đề nghị tôi tham gia một công trình khảo cứu  về “ DẤU ẤN ĐẠO PHẬT ĐẦU TIÊN TRÊN CAO NGUYÊN ĐĂK LĂK ”. Công trình do quý Thầy chủ trì đã tiến hành vài năm nay, tôi được mời tham gia công trình cùng một số nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử và khoa học tự nhiên ở địa phương. Tôi được phân công viết một số chương về Lịch sử, địa lý và văn hóa của khu vực Đăk Lăk và Tây Nguyên chính (tạm gọi là Địa Chí), đang cùng một số vị cố gắng hoàn thành sớm. Công trình này đang trong quá trình bảo vệ, chưa được công bố chính thức.
      Nay tôi xin lược trích phần viết về địa chí của khu vực lãnh thổ là Tây Nguyên và tỉnh Đăk Lăk ngày nay, đây  một số chương do tôi chịu trách nhiệm. Đây chỉ là tóm lược một số nghiên cứu, tìm hiểu của tôi về quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Tây Nguyên nói chung và vùng đất là tỉnh Đăk Lăk ngày nay; cũng như quá trình nhập cư và hình thành cộng đồng người Kinh trên vùng đất này.    
      Đây không phải là một sự sao chép rập khuôn từ chính sử hoặc một bài tập trả bài của những gì mà những anh học trò (là tôi) đã học thuộc để trả cho thầy. Mà từ những gì chính sử chép, từ những gì thầy đã dạy cho, chúng ta phải có trách nhiệm tìm kiếm đánh giá lại trong đó đâu là sự thật. Vì như nhà sử học Dương Trung Quốc viết : “… Không phải cứ nói đến “chính sử” do những sử gia tên tuổi biên soạn đã là chân lý tuyệt đối. Bởi trước hết, nó là sản phẩm của những cá thể hay triều đại, dù uyên thâm đến mấy thì cũng vẫn có thể có sai sót và nhiều khi xuất phát từ những lợi ích không thể gọi là tuyệt đối vì dân tộc…”.
      Nhưng trước khi nghỉ đến những điều to tác như sử gia này nói, chúng ta thử luận bàn đôi chút về Địa chí – vậy địa chí là gì ?
    - Địa chí hay địa phương chí là thể loại sách ghi chép, biên soạn, giới thiệu về địa lý, lịch sử, phong tục, nhân vật, sản vật, kinh tế, văn hoá... của một địa phương (làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố...) hay rộng hơn là của một quốc gia.
     Theo Từ điển Từ Hải thì địa chí là: "Sách ghi chép rõ các mặt địa hình, khí hậu, cư dân, chính trị, sản vật, giao thông của một quốc gia, một khu vực thì gọi là địa chí".
      Nó phản ánh mọi việc đúng như sự thật, “ Thuật lại mà không sáng tác ”, đúc kết tri thức và mang tính khoa học, không ngụ ý khen chê .
      Địa chí mang tính tư liệu, ghi chép, không bình luận mà chỉ thể hiện sự thật – khác với một cuốn lịch sử địa phương mang tính bình luận sử liệu, tìm hiểu, giải thích hoặc phát biểu của nhà sử học.
     Ngoài cách gọi là chí, một số tác phẩm có nội dung tương tự còn được gọi là ký, lục và đôi lúc gọi là kỷ lược, địa du chí lục, địa chí khảo.
     Địa chí có hai thể loại chính :
    Quốc chí (cũng được gọi là Tổng chí, Đại nhất thống chí, Nhất thống chí...) là những bộ địa chí toàn quốc, thường lấy đơn vị hành chính cấp tỉnh/thành làm đơn vị khảo cứu. Điều này có nghĩa, Quốc chí là một bộ sách gồm nhiều quyển, mỗi quyển viết riêng về từng tỉnh/thành .
     Địa phương chí:  Địa phương chí (còn gọi là phương chí, địa chí, tạp lục, phong thổ ký...) viết về từng vùng đất, từng tỉnh/thành, huyện/quận, làng xã/phường.
“ Hầu hết các sách "dư địa chí" đều ghi chép về cương vực, duyên cách, hình thế, khí hậu, giao thông, phong tục, thổ sản, thắng cảnh… của từng khu, từng tỉnh, rồi tập hợp lại cho thấy toàn bộ cảnh quan và sinh hoạt xã hội của đất nước. Nhưng cũng có một số nhà học giả uyên bác hơn còn đi sâu vào tình hình địa chí của các nước cổ nay đã gia nhập bản đồ Việt Nam, như các nước Chiêm Thành, Lâm Ấp, cùng các nước lân bang ” . Tôi sẽ đi theo hướng của quý học giả này trong bài viết sau đây:

ĐỊA CHÍ ĐĂK LĂK DƯỚI MỘT GÓC NHÌN

      1.  Địa lý
      Tây Nguyên là địa danh của vùng cao nguyên nằm ở Nam Trung Bộ Việt Nam, hiện đây là vùng lãnh thổ của 5 tỉnh gồm : Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm đồng. Phía bắc của Tây Nguyên giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, phía Tây giáp với các tỉnh Attappeu (Lào), Ratanakiri và Monduikiri (Cambodia). Trong khi Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia, thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông chỉ có chung đường biên giới với Campuchia. Còn Lâm Đồng không có đường biên giới quốc tế. Tây Nguyên có tổng diện tích rộng 54.641,0 km².
     Thực chất, Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền kề. Đó là các cao nguyên Kon Tum, cao nguyên Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nừng, cao nguyên Plâyku , cao nguyên M'Drăk, cao nguyên Buôn Ma Thuột, cao nguyên Mơ Nông, cao nguyên Lâm Viên  cao nguyên Di Linh. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (đó là dãy Trường Sơn Nam).
     Tây Nguyên được chia thành ba tiểu vùng địa hình đồng thời là ba tiểu vùng khí hậu, gồm Bắc Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Kon Tum và Gia Lai), Trung Tây Nguyên (tương ứng với các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông), Nam Tây Nguyên (tương ứng với tỉnh Lâm Đồng). Trung Tây Nguyên có độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam.
     Với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600 m so với mặt biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm. Cây điều  cây cao su cũng đang được phát triển tại đây. Tây Nguyên cũng là khu vực ở Việt Nam còn nhiều diện tích rừng với thảm sinh vật đa dạng, trữ lượng khoáng sản phong phú hầu như chưa khai thác và tiềm năng du lịch lớn, Tây nguyên có thể coi là mái nhà của miền trung, có chức năng phòng hộ rất lớn.
     Tây Nguyên nằm trong vùng nhiệt đới xavan, khí hậu ở đây được chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khô nhất. Do ảnh hưởng của độ cao nên trong khi ở các cao nguyên cao 400–500 m khí hậu tương đối mát và mưa nhiều, riêng cao nguyên cao trên 1000 m (như Đà Lạt) thì khí hậu lại mát mẻ quanh năm, đặc điểm của khí hậu núi cao.

      2. Lịch sử
    - Trong, trước đây khu vực Cao nguyên phía Nam của bán đảo Đông Dương (trong đó có vùng Tây nguyên) vốn là vùng độn giữa các nước Chiêm Thành và Chân Lạp (hoặc đế quốc Khmer), nó không thực sự thuộc về bên nào mà khi thì thuộc Champa, khi thì Chân Lạp, thậm chí có lúc một phần thuộc về Ai Lao tùy thuộc vào sức mạnh từng thời kỳ của các nước này.
      Cho tới đầu thế kỷ thứ 19, vùng đất Tây Nguyên vẫn là địa bàn sinh sống chủ yếu của các bộ tộc thiểu số, họ đang sống một cuộc sống sơ khai, hoang dã và du canh du cư theo từng mùa vụ cây trồng, từng vùng đất sản xuất. Xã hội của họ đang ở giai đoạn quần cư theo từng bộ lạc nhỏ riêng biệt, mỗi buôn làng là một lãnh thổ riêng của một vị tù trưởng, như một xã hội thu nhỏ và hoàn toàn độc lập với thế giới chung quanh
      Do phương thức canh tác nông nghiệp là hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên nên họ phải luôn thay đổi chổ ở để đi tìm đất sản xuất mới sau vài năm trồng trọt bị bạc màu, hoặc thay đổi chổ ở do dịch bệnh, do thiên tai , địch họa…. Nên họ không xây dựng các công trình kiên cố, mà chỉ xây dựng các công trình nhà cửa và các công trình công cộng bằng các nguyên vật liệu hoàn toàn tạm bợ.
      Hình thái xã hội vùng này hoàn toàn chưa có một thiết chế xã hội cao hơn, hoặc một tập hợp các bộ tộc cùng chủng tộc cùng vùng miền cũng hoàn tòan chưa có. Trong khi đó các vùng lân cận, một số thủ lĩnh của các bộ tộc lớn đã đứng lên tập hợp một số buôn làng lại thành một số Mường lớn, hoặc thành một số Vương quốc thậm chí là Đế quốc lớn .
      Như trình bày trên đây, ngay từ thế kỷ thứ X trên bán đảo Đông Dương đã hình thành ba thể chế nhà nước lớn là Đế quốc Khmer của người Khmer, vương quốc Champa của người Chăm và vương quốc Đại Cồ Việt của người Việt. Vùng đất Tây Nguyên là vùng giáp ranh giữa Đế quốc Khmer và vương quốc Champa . Vương quốc Đại Cồ Việt nằm hoàn toàn từ Thanh Hóa ngày nay trở ra phía Bắc, nên người Việt cùa chúng ta chưa có ảnh hưởng gì đến vùng này .
     Theo một số tư liệu của một số nhà nghiên cứu Việt Nam, thì từ xa xưa đây là vùng đất (hoặc vùng ảnh hưởng) của vương quốc Champa (Chú thích số 1) Nhưng theo nghiên cứu của chúng tôi thì người Chăm chỉ mạnh về khai thác thương thuyền và giỏi buôn bán; họ chưa bao giờ là những chiến binh giỏi việc chiếm đất giành dân. Nên người Chăm chỉ sử dụng vùng này như là nơi để khai thác sản vật và săn bắt nô lệ, chứ không chiếm cứ vùng này, minh chứng là cho đến nay văn hóa Chăm hoàn toàn không có ảnh hưởng gì đến vùng đất này. Ngoại trừ một số huyện phía đông của một số tỉnh như Gia Lai – Kon tum và Lâm đồng là có một số ảnh hưởng nhất định của văn hóa Chăm. Cũng bởi nhiều lý do nữa nhưng theo chúng tôi thì có một lý do lớn nhất là vùng này quá hiểm trở với rừng rậm vực sâu, khí hậu mưa ẩm ướt. Thật sự là rất khó tiếp cận với những phương tiện di chuyển thời bấy giờ, toàn khu vực này hoàn toàn không có một hệ thống sông ngòi nào đủ lớn để có thể di chuyển cả một đội quân bằng đường thủy cả. Nếu có thì chỉ là những dòng sông ngắn, nước chảy xiết, đầy ghềnh thác và thường chảy ngược về phía Tây (thường là những chi lưu của sông Mê Kông).
      Hơn nữa động cơ để thỏa mãn tính tham lam, tính ham muốn chinh phục của những kẻ mạnh cũng không có. Vì toàn khu vực này hòan toàn không có một dinh cơ, một khu thị tứ, hay một thành lũy nào đủ lớn để làm mục tiêu tiến đánh, để xâm chiếm và để chinh phục cả. Mà chỉ có thưa thớt những buôn làng nhỏ khoảng vài chục nóc nhà tranh đơn sơ hẻo lánh với những cư dân đang sống cuộc sống sơ khai, hoang dã.
     Sau khi nghiên cứu kỷ Biên niên Sự kiện giữa hai quốc gia đối địch này, đồng thời căn cứ theo một số nghiên cứu một cách đầy đủ và chuyên nghiệp gần đây, căn cứ theo các tư liệu và nghiên cứu chuyên sâu của người Pháp và một số nhà sử học phương Tây(1) (6)(7)(8)(9)(10)(11)(12)(13). Chúng tôi thấy được một sự thật lịch sử là :
    Thời gian từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ XIV, vùng Tây Nguyên thực chất là vùng đất nằm hoàn toàn trong lãnh thổ của Đế Quốc Khmer, đây là thời điểm phát triển hùng mạnh nhất của Đế quốc này ở Đông Nam Á. Toàn bộ lưu vực vùng trung, hạ lưu của sông Mê kông và sông Mê Nam cùng phần lớn bán đảo Mã Lai, bán đảo Đông Dương là lãnh thổ của Đế quốc này.
      Nếu trước thế kỷ VIII có một giai đoạn người Chăm lấn lướt người Khmer thậm chí là đánh chiếm Kinh đô của họ. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, nhất là từ thế kỷ thứ VIII trở về sau, thì đất nước của người Khmer phát triển cực thịnh trở thành một đế quốc lớn nhất vùng, có thời gian họ đã xâm chiếm và cai trị người Chăm hơn 100 năm.  
     Cụ thể là : Vào năm 1190, vua Khmer là Jatavarman VII đã đem quân đánh chiếm kinh đô Vijaya (tỉnh bình Định ngày nay) của Champa, bắt sống vua Chăm, phân chia Vương quốc này làm hai nước nhỏ và đưa người của mình lên làm Vua hai xứ này. Năm 1192 nhân dịp vua hai xứ này đánh nhau, Vua Khmer lấy cớ này đã nhập hai xứ này vào đế quốc Khmer và biến nó thành một tỉnh của đế quốc này, cho đến năm 1283 Champa bị quân Mông Cổ tiến đánh người Khmer mới rút khỏi Champa .         
      Nhưng trước đó, vào những thế kỷ đầu của Tây lịch, ở vùng hạ lưu của sông Mê Kông bắt đầu hình thành Vương quốc Phù Nam. Theo nhiều thư tịch cổ của Trung Hoa, thì trong thời kỳ hưng thịnh, vương quốc này về phía Đông, bao gồm cả Nam Trung Bộ và Nam Bộ(Việt Nam), về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam đến phần phía Bắc bán đảo Mã Lai. Vương quốc này do những người Bà La Môn từ Ấn độ di cư sang lập nên. Nguyên vào hậu bán thế kỷ thứ hai khi đế quốc Kushana của Ấn độ sụp đổ, nhường địa vị cho dòng họ Gupta, một vị hoàng thân thất thế của đế quốc này đã lưu vong sang vùng Đông Nam Á . Ông đã dừng chân ở hạ lưu của lưu vực sông Mê kông , sau khi kết hôn với một công chúa bản địa trong vùng tên là Soma. Theo truyền thuyết kể lại ông đã phóng một ngọn giáo xuống đất và chọn nơi này làm địa điểm dựng nước Phù Nam (9)(10)(11)(12).
     Vương quốc này tồn tại gần 600 năm, từ đầu Tây Lịch đến năm 627 thì bị vị vua Chân Lạp là Isanavarman I (615 – 635)(14) của người Khmer tiêu diệt và bị sáp nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp gọi là Thủy Chân Lạp ( sử Trung Hoa gọi là Giản Phố Trại). Vương quốc Phù Nam sau thời điểm này hoàn toàn biến mất trong lịch sử.
     Vào đầu thế kỷ IX (năm 802), Vua Jayavarman II của người Chân Lạp lập nên đế quốc Khmer hùng mạnh, chiếm cứ phần lớn bán đảo Trung - Ấn kéo dài tới gần hết bán đảo Mã Lai. Đế chế này tồn tại gần 5 thế kỷ (802 – 1431). Với những thành tựu văn hóa nghệ thuật rực rỡ, những công trình xây dựng lớn, khoa học kỹ thuật phát triển ; đánh dấu một giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của lịch sử đất nước Campuchia  
      Nhưng bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ 11 và đầu thế kỷ 12, trong lịch sử Campuchia là thời kỳ của các cuộc tranh giành quyền lực tàn bạo trong hoàng tộc, đã khiến cho đế quốc này bắt đầu suy yếu. Sức chi phối của Đế quốc Khmer đối với các vùng đất xa bắt đầu giảm đi. Các vùng đất trước đây thần phục đế quốc này đã lợi dụng tình hình này bắt đầu phân liệt.Kết quả, Chăm Pa đã giành lại độc lập, và Vương quốc Sukhothai của người Thái ở phía Tây bắt đầu nổi lên đẩy lùi người Khmer đi dần về phía Nam . Sau năm 1352, người Thái đã mở nhiều cuộc tiến công vào đế quốc Khmer nhưng đều bị đánh bật. Cuối cùng, năm 1431, Ayutthaya đã chiếm được Angkor.   
      Năm 1354 lợi dụng tình hình đế quốc Khmer đang suy yếu , Chậu Phà Ngừm là một vị tướng lừng danh của đế quốc Khmer lúc ấy, đã ly khai khỏi đế quốc Khmer và thành lập Vương quốc Lan xang ở vùng đất phía Đông - Bắc của Đế quốc Khmer và là vị Vua đầu tiên của vương quốc này. Vương quốc Lan Xang đã tồn tại độc lập trong hơn 350 năm (10)(11)(13) .
     Năm 1707, Vương quốc Lan Xang tan rã và bị phân chia làm 03 tiểu vương quốc, tiểu vương quốc Luang Phrabang (Nam Chưởng hay Lão Qua) ở phía bắc, tiểu vương quốc Viêng Chăn ở miền Trung và Champasak ở phía nam ( với thủ đô là thành phố Pắc Xế , tỉnh Champasak của nước Lào hiện nay) (13). Hơn 100 năm tồn tại độc lập cho đến khi bị người Xiêm xâm chiếm hoàn toàn (năm 1831), 3 tiểu vương quốc này hoàn tòan độc lập và tách biệt nhau. Họ luôn đối địch nhau, lịch sử vùng này ghi lại nhiều cuộc chinh chiến đẫm máu giữa 3 tiểu quốc này.
     Khu vực vương quốc Champasak bao gồm một phần vùng Đông Bắc Thái Lan, Đông Bắc Campuchia và các tỉnh Nam Lào: ChampasakSeetan (nay gọi là See Koong) , SaravaneAttopeuKam Tong YaiXieng TaengSaen ParngSurin,  SangkhaKhukhanSisaketYasotornKhemmaratKamalasaiKalasinPulaencharngSuvannapumRoi EtMahasarakam và vùng Tây Nguyên của Việt Nam ngày nay(6) (10) (11)(13) .
      Từ thế kỷ 18 trở đi, Champasak cùng với hai tiểu vương quốc miền Trung và miền Bắc thường bị XiêmĐại ViệtMiến Điện đưa quân sang xâm chiếm. Trong khi hai vương quốc phía bắc thường bị Miến Điện và Đại Việt uy hiếp thì vương quốc Champasak ở phía Nam cũng thường xuyên bị người Xiêm uy hiếp. Nhưng vào đầu thế kỷ 19 khi người Miến Điện do thua đế quốc Anh trong cuộc chiến 1824-1826 và suy yếu dần . Nước Đại Việt do bận cuộc nội chiến giữa Nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh đã bỏ ngỏ Vương quốc Chân Lạp và các tiểu Vương Quốc của Lào cho người Xiêm hoàn toàn thao túng.
      Năm 1831 người Xiêm đã thôn tính xong Vương quốc Lang Xang rộng lớn trước đây của người Lào và biến vùng đất này thành một phần lãnh thổ của Vương quốc Xiêm La - trong đó có vùng đất là tỉnh Đăk Lăk ngày nay. Nhưng trên thật tế người Xiêm chưa từng vươn tầm kiểm soát đến vùng đất này, họ xem vùng này như là vùng đệm giữa Đại Việt và Xiêm La. Hơn nữa ranh giới của các quốc gia ở vùng đất giáp ranh này trước đây chưa được xác định chính thức, tình trạng này được duy trì trên toàn vùng đất là tỉnh Đăk Lăk ngày nay cho tới khi bị người Pháp xâm chiếm năm 1898 .
      Năm 1833 nổ ra cuộc chiến tranh Việt – Xiêm (1833 -1834), với mục đích ban đầu chỉ là tranh giành ảnh hưởng tại Vương quốc Chân Lạp giữa hai quốc gia hùng mạnh này. Nhưng năm 1833 người Xiêm đã tổ chức hai cuộc tấn công vào vùng Nam bộ và Trung bộ (vùng Quảng Trị, nghệ An và vùng Trấn ninh) của nước Đại Nam (Việt Nam ngày nay) . Đợt đầu khởi từ tháng 11 năm 1833, rồi tạm ngưng, đợt hai tấn công từ tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1834), đến tháng Năm cùng năm thì kết thúc. Nhưng đã gặp phải sự chống trả mạnh mẽ của quân đội Nhà Nguyễn hùng mạnh lúc này đang dưới triều Vua Minh Mạng . Chung cuộc, quân Việt đại thắng người Xiêm đại bại. Quân Việt luôn đà chiến thắng đã tiến chiếm toàn bộ nước Chân Lạp, đuổi người Xiêm ra khỏi vùng đất phía Tây của Trung bộ Việt Nam và truy kích đến tận bờ phía Đông của sông Mê Kông , chiếm toàn bộ vùng Trung Lào và nhập vùng này vào lãnh thổ Đại Nam . Vùng đất là tiểu vương quốc Champasak của người Lào trước đây đã không bị quân Nguyễn tiến chiếm trong cuộc chiến này, nên sau cuộc chiến vẫn còn nằm lại trong vương quốc Xiêm La  (5) .
      Sau khi Vua Minh Mạng mất ( 1840 ), vị Vua nối ngôi là Thiệu Trị - không phải là ông vua của những cuộc chiến, nên khi đại thần Tạ Quang Cự tâu xin bỏ đất Chân Lạp và Lào để rút quân về, Vua đã nghe theo và xuống chiếu bãi binh. Vậy là sau hơn 5 năm chiếm đóng nhà Nguyễn đã phải trả các vùng đất là nước Campuchia và Trung Lào ngày nay lại cho các quốc gia nói trên, và hoàn toàn không còn quan tâm tớiSau khi quân đội Nhà Nguyễn rút đi thì người Xiêm đã từng bước xâm chiếm toàn bộ vùng đất là lãnh thổ của ba tiểu Vương quốc của Lang Xang ( Lào ) trước đây. Tới những năm 1860, nước Lào một lần nữa đã đánh mất vai trò của một thực thể quốc gia và trở thành một phần lãnh thổ của Vương quốc Xiêm La (13)(15)(16).
      Năm 1893 xảy ra một cuộc xung đột giữa Pháp và Vương quốc Xiêm La. Cuộc chiến nổ ra vào tháng Tư 1893 và chấm dứt nhanh chóng sau khi lực lượng hải quân Pháp phong tỏa thủ đô Băng kok của Xiêm. Ngày 03/10/1893, Hiệp ước Pháp - Xiêm được ký kết, thừa nhận quyền của nước Pháp trên phần đất nằm ở tả ngạn sông Mê Kông.  
      Như vậy từ ngày 03/10/1893, vùng đất nằm ở tả ngạn sông Mê Kông đã được người Pháp chiếm lại từ tay người Xiêm và nhập vào lãnh thổ của Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp.
      Năm 1904 lại có xung đột xảy ra, phần lớn do người Pháp gây chiến. Nhưng do tiềm lực kinh tế và quân sự thua xa thực dân Pháp và không có được sự giúp đở của người Anh như đã hứa, người Xiêm buộc phải lùi bước. Người Xiêm thua trận, một lần nữa buộc phải nhượng lại hai vùng đất phía tây sông Mê Kông là Xainaburī ở phía bắc và Champāsak ở phía nam cho người Pháp.
     Cùng lúc đó (1904), Pháp cắt Stung Treng khỏi Lào để nhập vào Campuchia và thực hiện một số sửa đổi khác về biên giới giữa Lào và Việt Nam (15)(16).
   “ Có thể nói – nếu không có cuộc xâm lược của người Pháp vào đất nước Lào và sau đó người Pháp không can thiệp vào công việc nội bộ của Xiêm và chiến tranh Pháp – Xiêm không xảy ra thì chắc chắn các vương quốc của đất nước Lào đã bị sáp nhập một cách lặng lẽ vào quốc gia Xiêm La từ thời kỳ này ” (15)(16).
    - Nhưng theo tôi thì thật tế vùng lãnh thổ là đất nước Lào ngày nay đã bị người Xiêm dùng sức mạnh sáp nhập vào nước Xiêm La từ trước năm 1830, chẳng qua là người Pháp với sức mạnh quân sự đã giành lại vùng đất là nước Lào ngày nay từ tay người Xiêm. Nên hiện nay trên một số công trình khảo cứu về lịch sử của phương Tây người ta cho rằng chính người Pháp đã lập ra nước Lào ngày nay; diều này cũng không có gì là quá đáng cả !

   * Kết :
    Hiện nay lịch sử chính thức của Lào miêu tả Lang Xang là quốc gia dân tộc Lào, và vì thế là tổ tiên trực tiếp của nước Lào hiện nay.
    Theo chúng tôi – “Quan điểm này vẫn còn phải xem xét nhiều. Vì hiện thực tế là không có sự phân biệt rõ ràng giữa người Xiêm, người Lào và những dân tộc nói tiếng Thái trước thế kỷ 19. Vì trước đó họ là người dân trong cùng một quốc gia, đến thời gian sau thế kỷ 17 do biến động chính trị phức tạp của vùng này, quốc gia của  họ bị chia cắt nhiều lần.
      Nhưng văn hoá và tôn giáo của họ hầu như giống nhau và các ngôn ngữ cũng có liên quan gần gũi. Các vị vua Lang Xang là người Lào - Lum, nhưng các dân tộc thuộc quyền cai quản của họ lại nói nhiều loại ngôn ngữ, gồm cả tiếng Xiêm, tiếng Khmer và nhiều nhóm ngôn ngữ Lào - Thoeng, Lào - Sūng nhỏ khác. Người Lào - Lum coi những người Lào ở miền núi là dân kém văn minh (mọi rợ), coi họ là khā (bọn nô lệ) và maeo (bọn man rợ).
      Nhưng trái lại, nền tảng quyền lực của các nhà vua Lào là triều đình và tôn giáo chứ không phải dân tộc hay quốc gia. Khi cần thiết, họ không ngại nộp cống cho người Xiêm, người Việt Nam, người Miến Điện hay những vị quan cai trị Trung Hoa với sự sốt sắng như nhau; nhằm bảo vệ vương quyền của mình.”(16) 

     3.  Ảnh hưởng của người Việt vào Tây Nguyên
     Ảnh hưởng đầu tiên của người Việt lên vùng đất này là sự kiện năm 1470, quân Đại Việt do vua Lê Thánh Tông trực tiếp chỉ huy tấn công Chăm Pa. Quân Đại Việt nhanh chóng đánh bại quân Chăm và bao vây thành Vijaya. Thành Vijaya thất thủ vào ngày 2 tháng 3 năm 1471 sau bốn ngày giao tranh. Vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường bị áp giải về Thăng Long. Kinh thành Vijaya bị phá hủy hoàn toàn. Sau chiến thắng vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập các địa khu Amaravati và Vijaya vào Đại Việt   lập nên thừa tuyên Quảng Nam và duy trì vệ quân Thăng Hoa ở đây.
     Sau chiến thắng này vùng đất phía Tây của Champa đương nhiên thuộc quyền cai quản của nhà Hậu Lê. Nhưng đây là vùng đất đai có núi non hiểm trở và rừng thiêng nước độc dân cư thì chỉ là người dân tộc thiểu số, nên nhà Lê chỉ tìm cách gây ảnh hưởng của mình lên các vùng cư trú của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, mặt khác đã có những chính sách nhằm duy trì mối quan hệ giữa người Kinh và đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhưng hoàn toàn phó thác cho họ được tự cai quản vùng lãnh thổ của mình.
    Năm 1540, khi Bùi Tá Hân được triều đình cử làm Tuần Tiết xứ Nam Ngãi, kiêm cả các vùng dân tộc miền núi phía Tây. Ông đã cho di dân lên lập ấp trên miền núi, mở mang buôn bán giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số, tiến cử các vị tù, tộc trưởng ở địa phương và tấn phong vua Hỏa Xá và Thủy Xá(ở vùng đất là Đăk Lăk ngày nay) .
     Năm 1600, khi Nguyễn Hoàng xây dựng vùng đất phía Nam thành một Vương quốc riêng của nhà Nguyễn, các chúa Nguyễn ra sức loại trừ các ảnh hưởng còn lại của vương quốc Champa và cũng phái một số sứ đoàn để thiết lập quyền lực ở khu vực Tây Nguyên
     Tuy sự ràng buộc này khá lỏng lẻo, nhưng về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc phạm vi bảo hộ của các chúa Nguyễn.
     Các bộ tộc thiểu số ở đây dễ dàng chuyển sang chịu sự bảo hộ của người Việt, vốn không có thói quen buôn bán nô lệ. Tuy nhiên, cho tới thời kỳ này, các bộ tộc ở đây vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, cuộc sống của họ vẫn đang ở thời lỳ sơ khai, hoang dã. Trong một số tài liệu được ghi chép vào thế kỷ 16, 17 đã có những ghi nhận về các bộ tộc Mọi Ðá Vách (Hré), Mọi Hời (Hroi, Kor, Bru, Ktu và Pacoh), Mọi Ðá Hàm (Djarai), Mọi Bồ Nông (Mnong) và Bồ Van (Rhadé Epan), Mọi Vị (Raglai) và Mọi Bà Rịa (Mạ) để chỉ các bộ tộc thiểu số sinh trú ở vùng Nam Tây Nguyên ngày nay. 
      Sang đến triều Nguyễn, quy chế dành cho Tây Nguyên vẫn không thay đổi nhiều,  người Việt vẫn chú ý khai thác miền đồng bằng nhiều hơn, đặc biệt ở các vùng miền Đông Nam Bộ ngày nay, vô tình đã đẩy các bộ tộc thiểu số bán sơn địa vùng này lên hẳn vùng Tây Nguyên. Cho tới khi người Pháp xâm lược Việt Nam (1858), Nhà Nguyễn hầu như không mấy chú ý đến vùng đất là Tây Nguyên ngày nay.
      Tuy nhiên, về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc quyền kiểm soát của triều đình Đại Nam. Vào năm 1830, vua Minh Mạng sáp nhập vùng đất Tây Nguyên ngày nay và đưa vào bản đồ Đại Nam, mặc dù không hề có người Kinh sinh sống cũng như quan lại cai trị. Tây Nguyên lúc đó được xem là vùng tự trị của Việt Nam (5).
    Địa bàn Tây Nguyên - Daklak được gọi là trấn Man, do triều đình gián tiếp quản lý. Về hành chính, trấn Man chia thành 4 nguyên và 5 đạo và về quân sự, nhà Nguyễn lập ra một số đồn lính, tiến hành tuần tra, canh phòng biên giới và ngăn chặn sự xâm lược của quân Xiêm.
    Cho tới khi Pháp xâm lược Việt Nam năm 1858 và hoàn thành công cuộc xâm chiếm Việt Nam năm 1885, người Pháp mới bắt đầu công cuộc khai thác thuộc địa một cách ráo riết. Người Pháp đã cử các đoàn thám hiểm lên khám phá Tây Nguyên theo ngã sông Đồng Nai, và ngã Củng Sơn ( Tuy hòa), nhưng đều thất bại, dù họ đến bằng nhiều danh nghĩa , kể cả danh nghĩa các đoàn truyền giáo(15) .
       Đoàn đến được Tây Nguyên đầu tiên là đoàn đi dọc sông Đồng Nai, cũng chỉ tới được khu vực là huyện Đăk Lấp tỉnh Đăk Nông bây giờ, không tiến xa được do địa hình qúa hiểm trở và đích đến không biết được là đâu. Vì thực tế không có một mục tiêu hay thành lũy hoặc khu thị tứ nào cả mà chỉ toàn là những buôn làng nhỏ xơ xác của cư dân bản địa đang sống cuộc sống  sơ khai. Cư dân bản địa hoàn toàn là các tộc người chủ yếu như : Lào, Ê Đê, Mơ nông,Ba na, Ra lai…hòan toàn không có người Kinh (Việt). Nên Toàn quyền Pháp ngưng các cuộc thám hiểm chính thức mà chỉ khuyến khích các đoàn truyền giáo lên truyền đạo cho người Thượng (15) .
      Ngày 03/10/1893, Hiệp ước Pháp - Xiêm được ký kết, thừa nhận quyền của nước Pháp trên phần đất nằm ở tả ngạn sông Mê Kông, trong đó có Cao Nguyên Nam Đông Dương(người Pháp gọi là Hinterland). Ngày 01/6/1895 thống sứ Lào là Boulloche chia lãnh thổ Lào thành hai vùng riêng biệt, một gọi là Thượng Lào đóng trụ sở tại Luong Prabang và vùng còn lại gọi là Hạ Lào đóng trụ sở tại Kong của Stung - Treng. Hạ Lào gồm tất cả các lãnh thổ nằm giữa sông Mêkong và dãy Trường Sơn, ôm trọn toàn bộ vùng cao nguyên Nam Đông Dương (gọi là Hinterland). Cao Nguyên này là vùng lãnh thổ của 3 tỉnh Stung Streng (trong đó địa bàn Đắk Lắk), tỉnh Alopen và tỉnh Saravane của vùng Hạ Lào mới thành lập.
      Ngày 16/10/1898, Khâm sứ Trung kỳ Bovelloche buộc triều đình Huế đặt vùng Tây Nguyên dưới sự đặc trách của người Pháp.    
      Cũng năm 1898 , người Pháp đã cử các đội quân thâm nhập Đăk Lăk đầu tiên theo ngã đường sông Mê Kông từ phía Cam pu Chia, năm 1898 người Pháp đánh chiếm Bản Đôn.(5)(16) (17)
      Bourgeois - một tên thực dân nổi tiếng nham hiểm, sau khi thu phục được Khunjunop, một tù trưởng được mệnh danh là Vua săn voi nổi tiếng ở Bản Đôn đã đặt cơ sở hành chánh đầu tiên ở đây. Sau đó họ đi ngược dòng dọc theo sông Sêpốk, đánh chiếm và bình định các vùng khác trong tỉnh, người Pháp tiến đến vùng bình nguyên dọc theo con suối Ea tam đã gặp một số buôn làng của người Ê Đê Kpă do tù trưởng Ama Thuột cai quản. Họ đã tìm mọi cách để thu phục tù trưởng Ama Thuột nhằm đặt tiền đề cho việc di dời thủ phủ từ Bản Đôn về địa danh Buôn Ma Thuột ngày nay(17) .
      Ngày 31/01/1899, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định thành lập một cơ sở hành chính tại Bản Đôn, trên bờ sông Sêrêpôk trực thuộc tỉnh Stung Streng với mục đích thể hiện quyền cai trị của nước Pháp trên thung lũng này để kiểm soát các tộc người bản địa ở đây – nhất là tộc người Jarai, là bộ tộc đông đảo và hùng mạnh nhất trong vùng vào thời kỳ này, cũng như tạo sự dễ dàng cho việc buôn bán giữa Lào và Trung kỳ.
      Ngày 02/11/1899, viên quản nhiệm Bovrglocs lập ra hạt đại lý khu vực Bản Đôn tìm cách thu phục đồng bào Ê Đê, M’nông (nhóm Kpă và Bih) vùng hạ lưu sông Krông Ana và sông Krông Nô,
      Ngày 22 tháng 11 năm 1904, theo đề nghị của Hội đồng tối cao Đông Dương, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định thành lập Đại lý hành chính Buôn Ma Thuột, thuộc quyền giám sát và quản trị của Khâm sứ Trung Kỳ và Buôn Ma Thuột được chọn làm cơ quan hành chính của tỉnh Đarlac (tên gọi tỉnh Đắk Lắk bây giờ) thay cho Bản Đôn. Ngày 22/11/1904 Hội đồng tối cao toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định tách Đắk Lắk khỏi địa bàn nước Lào và đặt thành một tỉnh thuộc quyền giám sát và quản trị của Khâm sứ Trung kỳ. Như vậy, với Nghị định ngày 22/11/1904, Đắk Lắk chính thức trở thành một trong 20 tỉnh, thành phố thuộc Trung kỳ (6) (17) .
      “ Từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1945, Việt Nam và Lào bị thực dân Pháp thống trị. Trong thời kỳ này, hai nước cùng bị thực dân Pháp thống trị, do vậy đường biên giới giữa hai nước chỉ là ranh giới hành chính giữa hai xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Ai-lao trong cái gọi là “liên bang Đông Dương” thuộc Pháp. Để phục vụ việc quản lý và khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã làm rất tuỳ tiện, một số vùng đất tiếp giáp giữa Việt Nam và Lào bị chia đi cắt lại nhiều lần” (16)(17) .

   4.  Các tên gọi trong lịch sử
     Địa danh Tây Nguyên được biết đến lần đầu tiên là từ năm 1960, khi công bố Hiến pháp 1959 của Việt Nam Cộng hòa, trong đó có điều khoản về các khu tự trị của các sắc tộc thiểu số và có nhắc đến Tây Nguyên (2).
     Trước đó, từ thời Pháp thuộc, vùng đất này chưa có tên gọi riêng mà chỉ là đơn vị hành chính trực thuộc Khâm sứ Trung Kỳ, nên có tên là vùng Cao nguyên Trung KỳNgoài ra, người Pháp còn gọi nơi này là Les Hauts Plateaux du Sud (Cao nguyên miền Nam). Thời nhà Nguyễn, vùng đất này được thuộc về châu Thượng Nguyên 
      Sau khi Nhật đảo chính Pháp, chính phủ Trần Trọng Kim đã đổi tên đơn vị hành chính cấp Kỳ thành cấp Bộ. Từ đó vùng đất này được gọi là Cao nguyên Trung Bộ trong khi người Pháp thành lập Xứ Thượng Nam Đông Dương (Pays Montagnard du Sud -Indochinois) năm 1946.
      Khi Quốc gia Việt Nam thành lập, Quốc trưởng Bảo Đại đã đổi tên đơn vị hành chính cấp Bộ thành cấp Phần. Riêng khu vực cao nguyên được tách ra và được hưởng quy chế hành chính đặc biệt có tên là Hoàng triều Cương thổ kể từ năm 1950. Tại vùng này thì Quốc trưởng Bảo Đại vẫn giữ vai trò là Hoàng đế.
      Đến năm 1955, chính phủ Ngô Đình Diệm chấm dứt chế độ Bảo đại và thành lập nền Đệ nhất Cộng hòa. Hoàng triều cương thổ lại được sát nhập vào Trung phần và được gọi là vùng Cao nguyên Trung phần. Tên gọi này được chế độ Việt Nam Cộng hòa sử dụng mãi cho đến năm 1975 .

    5.  Con ngườivăn hóa và tín ngưỡng:

      a/ Con người    
      Vùng đất Đăk Lăk trước đây là quê hương của đồng bào các dân tộc thiểu số bản địa Ê đê, M’nông, Gia rai, Lào, Khmer….. trong đó đông nhất là hai dân tộc Ê đê và M’nông. Dân tộc Ê đê thuộc ngữ hệ Malayô - Pôlinêdiêng, địa bàn cư trú chủ yếu của họ là ở các huyện Bắc và phía Nam: từ Ea Hleo, Buôn Hồ xuống M’Drak và kéo dài lên Buôn Ma Thuột. Dân tộc M’nông thuộc ngữ hệ Môn-Khơ me, địa bàn cư trú chủ yếu là các huyện phía Nam và dọc biên giới Tây Nam. Cùng với các dân tộc khác, đồng bào Ê đê, M'nông là chủ nhân lâu đời của mảnh đất Tây Nguyên giàu tiềm năng, giàu truyền thống và bản sắc văn hóa.
      Sau ngày đất nước thống nhất (1975) đến nay, bên cạnh các dân tộc bản địa, nhiều tộc người khác ở miền Trung, miền Bắc đã đến Đăk Lăk sinh cơ lập nghiệp xây dựng quê hương mới; tạo thành một đại gia đình 47 dân tộc anh em và xây nên một vườn hoa văn hóa độc đáo giàu bản sắc với ba nền văn hoá tiêu biểu:

  - Văn hoá của các dân tộc bản địa: Trường ca Tây Nguyên

  - Văn hoá các dân tộc thiểu số phía Bắc

  - Văn hoá người kinh với sự hội tụ của ba miền Bắc - Trung - Nam

    Thành phần dân tộc của Đăk Lăk hiện nay :

    Kinh , Bru - Vân kiều, Ê đê, Thổ,Tày, Dáy, Thái, Cơ tu, Hoa, Giẻ-Triêng, Khơ me, Mạ, Mường, Khơ mú, Nùng, Mông, Tà ôi, Dao, Chơ roi, Gia rai, Hà nhì, Ngái, Chu ru, Ba na, Lào, Xê đăng, Phù lá, Sán chay, La hủ, Lào, Kơ ho, Chăm, Chứt, Sán dìu, Mảng, H’rê, Pà thẻn, M’nông, Si la, Raglai, Pu péo, Xtiêng.

     b/ Văn hoá và tín ngưỡng
     Nói đến văn hóa truyền thống ở Daklak, trước hết phải nói đến nền văn hóa mang đậm nét đặc trưng của cư dân bản địa, từ bao đời nay đã tạo dựng nên một nền văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng, với những di sản văn hóa vật thể cũng như phi vật thể độc đáo. Nói đến các di sản văn hóa dân tộc, không quên các di sản văn hoá vật thể nổi tiếng như đàn đá, nhạc cụ, cồng chiêng, kiến trúc nhà dài, kiến trúc nhà mồ, công cụ lao động dệt cẩm thổ, tạc tượng ... cùng các di sản văn hoá phi vật thể như luật tục, các lễ hội, các tập tục và các sinh họat văn hóa, sinh họat cộng đồng. Đồ sộ và phong phú hơn cả là kho tàng văn học dân gian với những bản sử thi (Dân tộc Eđê gọi là Khan, dân tộc Mnông gọi là át Nrông), thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, lời nói vần... đậm đà bản sắc dân tộc lưu truyền qua bao thế hệ. Ngòai ra dân tộc Ê đê còn có cả chữ viết mà sau này được phiên âm sử dụng phổ biến từ thời Pháp thuộc cho đến nay.
      Trước đây cũng như hiện nay, quan hệ xã hội cơ bản của đồng bào các dân tộc vẫn còn mang đậm tính huyết thống và tính cộng đồng bền chặt. Nói chung, đồng bào các dân tộc Ê đê, M’nông, Gia Rai đều có một đặc điểm lớn, đó là sự tồn tại bền vững của những mối quan hệ xã hội cổ truyền tốt đẹp được hình thành qua các thời kỳ lịch sử lâu dài. Tính cộng đồng, dân chủ, bình đẳng, tương thân tương ái... Bên cạnh đó, tinh thần thượng võ, nhân ái, yêu thiên nhiên, cần cù sáng tạo. Nổi bật hơn cả là ý chí đấu tranh bất khuất chống chọi với thiên nhiên và truyền thống đấu tranh bảo vệ buôn làng, bảo vệ quê hương đất nước.
      Điểm tô thêm nền văn hóa truyền thống của các dân tộc bản địa, DakLak còn có sự du nhập nền văn hóa của các dân tộc thiểu số phía Bắc và nền văn hóa của người Kinh với đủ sắc thái của ba miền Trung - Nam - Bắc. Tất cả đều được gìn giữ và phát triển, hòa quyện trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
      Trên lĩnh vực tôn giáo :  “ Ở Tây Nguyên hiện có 4 tôn giáo chính là Phật giáo, Công giáo, Tin Lành và Cao Đài. Năm 2009, trong tổng số 5.115.135 người ở Tây Nguyên, có 570.274 người theo đạo Phật (8%), 800.693 người theo Công giáo (16,1%), 362.689 người theo Tin Lành (7,9%), 20.105 người theo Cao Đài (0,003%), 1.119 người theo các tôn giáo khác (0,0002%) và 3.047.714 người không theo tôn giáo nào (59,5%). 
      Riêng khu vực tỉnh Đắc Lắc: Có 4 tôn giáo, trong đó Công giáo có 162.637 tín đồ (31.000 tín đồ là người dân tộc thiểu số); Phật giáo có hơn 117.000 tín đồ (3.000 tín đồ là người dân tộc thiểu số); đạo Tin Lành có hơn 102.000 tín đồ, chủ yếu là người dân tộc thiểu số; đạo Cao Đài có hơn 4.400 tín đồ.(3)
      Ngoài ra, nói đến văn hóa ở Daklak cũng không thể không nói đến các danh thắng, các di tích lịch sử văn hóa mang dấu ấn của lịch sử. Trên địa bàn Daklak đã tìm thấy một số di chỉ khảo cổ học mang dấu tích của người tiền sử. Đó là các di chỉ ở Drai Si (huyện Cư Mgar), xã Ea Tiêu, Quảng Điền (huyện Krông Ana), thị trấn DakRLấp, xã Quảng Trực (huyện DakRLấp), xã Buôn Triết, hồ Lak (huyện Lak), xã Trường Xuân, Dak Rung, thị trấn Gia Nghĩa (huyện Dak Nông), xã Dak Rồ (huyện Krông Knô), xã Ea Păn, xã Xuân Phú (huyện Ea Kar).
     Qua các di chỉ trên, đã tìm thấy những công cụ, khí cụ, đồ trang sức bằng đá; đồ gốm và bàn dập, bàn mài hoa văn trên gốm. Nguyên liệu chế tác đều lấy từ đá bazan và đá biến chất, vốn là đặc trưng của Tây Nguyên. Kiểu dáng và kỹ thuật chế tác có nhiều điểm tương đồng với văn hóa Biển Hồ (Gia Lai) và văn hóa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi). Thời đại đồ đồng cũng đã phát hiện được 7 chiếc trống đồng ở huyện Ea Súp, Ea HLeo, Krông Pac Ea Kar và TP Buôn Ma Thuột.

      Đặc biệt hiện nay tại xã Chư MLanh (huyện Ea Súp), có một ngọn tháp lớn theo kiến trúc Bà La Môn là tháp Yang Prong (Thần vĩ đại) , “ trước đây có ý kiến cho rằng tháp do người Chăm xây dựng vào cuối thế kỷ XIII - dưới triều đại vua Chế Mân của Champa, để thờ thần Sinva (Bà La Môn). Đây là tháp Chăm cổ duy nhất còn lại ở Tây Nguyên ”.(1)  
      Nhưng theo tôi, đây không phải là công trình do người Chăm xây dựng mà của người Khmer xây dựng. Theo niên đại của ngôi tháp đã được xác định là được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII, thì thời gian này đây là vùng đất cai quản của Đế quốc Khmer hùng mạnh, đây là thời kỳ phát triển rực rở nhất về mọi mặt của người Khmer.
       Như phân tích trên, Tây Nguyên mà nhất là khu vực các huyện có biên giới với Campuchia ngày nay của tỉnh Đăk Lăk như huyện Buôn Đôn, huyện Ea Súp. Thì xin nhắc lại là trong các thế kỷ từ VIII – XV, đây là vùng đất nằm hòan toàn trong lãnh thổ của Đế Quốc Khmer hùng mạnh, nên trong thời gian này và tại địa điểm nói trên chưa bao giờ là nơi cư trú của người Chăm cả. Cho đến nay cũng hoàn toàn không có vết tích gì về cuộc sống của người Chăm trên toàn tỉnh Đăk Lăk (nhất là các huyện giáp biên giới với Campuchia).
      Theo tôi do đa số các học giả đều suy nghỉ đơn giản và chủ quan cho rằng vào những thế kỷ XII - XIII ở khu vực phía Nam của bán đảo Đông Dương chỉ có người Chăm là có đạo Hindu, và những công trình kiến trúc nào có dấu ấn của đạo Hinđu(Bà La Môn) thì đều bị cho là của người Chăm, nên mới có sự nhầm lẩn này(1).  
       Theo Biên Niên sử của đất nước Campuchia và nhiều công trình nghiên cứu khảo cổ học đã công bố thì vào nửa cuối thế kỷ XIII, trong lịch sử của đất nước Campuchia có một biến cố quan trọng khi vị Vua của đế quốc Khmer là Jayavarman VIII lên ngôi năm 1243 (trị vì từ 1243-1295). Không như các vị vua trước của  vương quốc này đều theo đạo Phật, ông theo đạo Hindu (Bà La Môn) và rất quá khích chống lại đạo Phật. Ông cho phá hủy phần lớn các tượng Phật trong vương quốc (các nhà khảo cổ ước tính trên 10 ngàn tượng Phật bị phá hủy, chỉ để lại rất ít dấu tích) và biến chùa chiền thành đền thờ của đạo Hindu.
     Đồng thời ông cũng cho xây dựng nhiều công trình có kiến trúc của đạo Hindu (Bà La Môn), mà công trình tháp Yang Prong (Thần vĩ đại) tại xã Chư MLanh (huyện Ea Súp), có thể là một trong các số đó.
      Công trình kiến trúc to lớn và kỳ vĩ này không thể là do một nhóm lưu dân người Chăm nào đó từ các tiểu quốc Chăm ở duyên hải miền Trung xa xôi vượt hàng mấy trăm cây số rừng rậm, vực sâu để lên đây xây dựng nên, sau đó họ lại vượt rừng núi trở về quê hương bản quán của họ ở ven biển miền Trung Việt Nam hiện nay. Mà công trình này phải có tiềm lực nhà nước (triều đình) tại chổ xây dựng, phải có đủ tiền tài, nhân lực và thời gian mới xây dựng được. Và đồng thời đây là công trình tôn giáo nên phải có sự cho phép, chứng kiến của các chức sắc tôn giáo của nhà nước mới tiến hành được.
       Triều đại của Jayavarman VIII kết thúc năm 1295 khi ông bị con rể  là Srindravarman (trị vì từ 1295-1309) lật đổ. Tân vương lại là người theo Phật giáo Theravada, là trường phái Phật giáo đến từ Sri Lanka, rồi lan tỏa khắp khu vực Đông Nam Á.
       Tôi cũng có đầy đủ tư liệu và chứng cứ để chứng minh nguồn gốc một bộ phận người Chăm hiện đang sinh sống trên đất nước Campuchia hiện nay. Thật ra họ là những người Chăm từ Vương quốc Champa di cư sang Campuchia sau cuộc chiến Đại Việt – Champa, năm 1470. Trong cuộc chiến này quân Đại Việt do vua Lê Thánh Tông trực tiếp chỉ huy tấn công Chăm Pa. Quân Đại Việt lúc này rất mạnh và có tổ chức tốt. Quân Việt nhanh chóng tiến lên đánh bại quân Chăm và bao vây kinh đô Vijaya. Thành Vijaya thất thủ vào ngày 2 tháng 3 năm 1471 sau bốn ngày giao tranh. Vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường bị áp giải về Thăng Long.“ Kinh thành Vijaya bị phá hủy hoàn toàn và bị san thành bình địa, hơn 40.000 dân quân người Chăm bị giết chết, hơn 30.000 người dân bị đày ra biên cương; dấu vết văn hóa Ấn độ trên đất Champa bị tiêu diệt hoàn toàn,”(12).
       Chính thất bại này đã dẫn đến việc người Chăm lần đầu tiên di cư với số lượng lớn sang Campuchia và bán đảo Malacca (19)(20) ..      
     6/. Kết luận:
     Tây Nguyên là vùng đất có vai trò và vị trí kinh tế, xã hội, chính trị hết sức quan trọng, có những nét đặc thù về địa lý, lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, con người… Do vậy, Tây Nguyên luôn luôn nhận được sự quan tâm không chỉ của giới nghiên cứu, mà của toàn xã hội. Trong khoảng hai thập niên trở lại đây, toàn cầu hóa và hiện đại hóa đã có tác động mạnh mẽ đến đời sống tôn giáo trên thế giới và khu vực với nhiều động thái mới, xu hướng mới, đã và đang ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tôn giáo Việt Nam, trong đó có khu vực Tây Nguyên.
      Tôn giáo được truyền vào Tây Nguyên cho đến nay đã hơn 150 năm (mốc thời gian đã xác định được), khi xã hội Tây Nguyên đang còn trong giai đoạn tín ngưỡng đa thần bái vật giáo). “ Đã phá vỡ kết cấu xã hội truyền thống, gây nên những mâu thuẫn, xung đột xã hội. Chẳng hạn, xung đột giữa cộng đồng mới với cộng đồng cũ, những mâu thuẫn giữa cộng đồng của tôn giáo này với cộng đồng của tôn giáo khác. Ban đầu, những mâu thuẫn xung đột xuất hiện dưới dạng mâu thuẫn về giá trị, về văn hóa,... nhưng sau đó sẽ biến thành những mâu thuẫn, xung đột về mặt xã hội ” (3).
      - “ Tuy tôn giáo cũng bị một số phê phán là đã phá vỡ kết cấu truyền thống xã hội cũ của các tộc người Tây Nguyên. Nhưng đồng thời lại tạo nên một hình thái xã hội mới đó là cộng đồng dân tộc - tôn giáo, tộc người - tôn giáo. Nghĩa là, xuất hiện những cộng đồng cùng theo một tôn giáo, bên cạnh mối quan hệ về dân tộc và huyết thống như trước đây thì bây giờ có thêm mối quan hệ tôn giáo. Điều đó, một mặt mở rộng kết cấu xã hội truyền thống, tăng cường các mối quan hệ xã hội giữa cá nhân với cộng đồng, giữa các nhóm cộng đồng với nhau ”(4) .
     Vùng đất cao nguyên ở phía Nam bán đảo Đông Dương và vùng Tây Nguyên vào thời kỳ trước thế kỷ XVII, các sách sử cổ của các nước trong vùng hầu như không có ghi chép gì cụ thể về vùng đất này. Ở một vài nơi chỉ nói từng giai đoạn tóm lượt là nó thuộc về nước này hoặc nước kia. Nhưng giai đoạn từ thế kỷ XVIII – XIX, khi người phương Tây bắt đầu xuất hiện ở đây họ đã ghi chép lại khá nhiều sự kiện của vùng này. Phần lớn các nhà nghiên cứu sử của các nước có liên quan đến vùng này hiện cho đây là những tài liệu quý giá cho việc biên soạn Biên Niên Sử của mình.
     Theo các ghi chép này, thời kỳ từ thế kỷ XVIII – XIX nơi đây xảy ra nhiều biến động chính trị lớn. Lịch sử địa chính trị vùng này xảy ra nhiều biến động làm đảo lộn nhiều quốc gia, nhiều cuộc chiến tranh lớn đã nổ ra làm thay đổi xã hội của các dân tộc vùng ngày. Nhiều nhà thám hiểm người Pháp, trong những ghi chép của mình đã gọi “vùng đất này là nơi không ai cai quản” .(6)(7).
     Cho đến những năm đầu thế kỷ XIX khi những người Pháp đầu tiên đến vùng đất này, tuy họ đến với danh nghĩa của những nhà truyền giáo, họ đã ghi nhận những cuộc chiến tranh liên miên giữa các bộ tộc nơi đây. Với những buôn làng bị tàn phá, bị đốt cháy; những xác người rải rác khắp nơi, với những đoàn người bị bắt làm nô lệ và những phiên chợ mua bán nô lệ. Đã đưa các dân tộc sinh sống nơi đây lùi trở lại thuở sơ khai .
      Theo những tư liệu mà tôi có được sau một thời gian dài nghiên cứu và phân tích như nói trên đây, thì cho mãi tới khi người Pháp đặt những bước chân đầu tiên lên vùng đất là tỉnh Đăk Lăk ngày nay (tại khu vực Bản Đôn năm 1898), thậm chí khi họ tiến về khu vực là Buôn Ma Thuột ngày nay năm 1904 – thì hoàn tòan không có một người Kinh (Việt) nào sinh sống ở trên khu vực là tỉnh Đăk Lăk ngày nay.
      Cho mãi tới năm 1932 khi viên Công sứ Pháp Léopold Sabatier bị chính quyền thuộc địa Pháp điều đi nơi khác, (do viên Công sứ này muốn duy trì sự biệt lập của Tây Nguyên bằng cách ra lệnh cấm người Việt đi lại và sinh sống trên toàn tỉnh Đăk Lăk. Đã ngăn cản sự phát triển và khai thác triệt để thuộc địa của chính quốc), người Pháp mới chấp nhận để cho những người Kinh nhập cư tự do đầu tiên lên sinh sống tại Đăk Lăk.
      Ở đây cũng xin lưu ý là khi những người Pháp đặt những bước chân đầu tiên của họ lên vùng đất này (năm 1998), trong đội quân của họ dĩ nhiên là có những người Việt của chúng ta bị buộc làm phu khuân vác phục dịch họ, nhưng đó không thể gọi là người di cư đầu tiên được. Vì họ không có tự do, không tự làm theo những gì mình muốn.
      Trên đây là Tóm tắt Biên Niên Sự Kiện về vùng đất này, từ đầu Công Nguyên tới năm 1932. Cùng một vài tóm tắt về địa lý, văn hóa, con người và tín ngưỡng của tỉnh Đăk Lăk xin viết nên để mọi người tham khảo.
     Bài viết này được viết hoàn toàn theo góc nhìn của tôi, có giải thích, phân tích và bình luận một vài sự kiện điển hình trong khuôn khổ cho phép và mong rằng không làm mất lòng ai ./.
   ĐKT
Nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa + lịch sử VN
Hội viên hội KHLS Việt Nam
24/04/2014

                         
Chú thích :
1/ Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng : - “ …tất cả những cái đó phải được xem xét cụ thể trên nhiều phương diện như độ tin cậy của sử liệu, phương pháp phân tích của tác giả và phải đặt trong tổng thể với các nguồn tư liệu khác…. Không phải cứ nói đến “chính sử” do những sử gia tên tuổi biên soạn đã là chân lý tuyệt đối. Bởi trước hết, nó là sản phẩm của những cá thể hay triều đại, dù uyên thâm đến mấy thì cũng vẫn có thể có sai sót và nhiều khi xuất phát từ những lợi ích không thể gọi là tuyệt đối vì dân tộc mà căn bản là của giới cầm quyền….”
2/ Theo tác giả Nguyễn Đình Tư, trong bài Tây Nguyên xưa và nay, đăng trên tạp chí Xưa và nay, số 61B, tháng 3 năm 1999
3/ Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam hiện nay, GS. TS Tạ Ngọc Tấn chủ biên, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010; Là công trình khoa học trọng điểm cấp nhà nước số hiệu KX. 04. 14/06 – 14
4/ Một số vấn đề cơ bản của xã hội Tây Nguyên trong phát triển bền vững , của Tiến sĩ Bùi Minh Đạo, Viện Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên, thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 2012
5/ Trong Đại Nam Họa đồ xuất bản dưới triều Minh Mạng (1830), triều đình nhà Nguyễn có đưa vùng đất này vào tấm bản đồ này . Nhưng thật tế lúc này chưa có người Việt sinh sống ở đây và cũng chưa hề có một bộ máy quyền lực nào của nhà Nguyễn lập ở vùng này nhằm khẳng định chủ quyền của nhà Nguyễn trên vùng đất này.
6/ Cuốn Les Jungles Moi của Henri Maitre.
  - Đây là cuốn sách do nhà truyền giáo Henri Maitre viết với sự tài trợ của người Pháp , ông và một số cộng sự đã khảo sát tại khu Nam - trung bộ của Đông Dương trong các năm 1909-1911 để viết cuốn sách này. Cuốn sách Les Jungles Moi sau này đã được dịch ra tiếng Việt với nhan đề Rừng Người Thượng. Năm 1914 Henri Maitre bị ám sát chết tại một vùng bên Campuchia .
  -  Là cuốn sách mà trong lần xuất bản mới đây nhất – năm 2008 của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (Hà Nội), do nhà xuất bản Trí thức phát hành. Đã khẳng định trong lời giới thiệu rằng : “ Đây là một công trình khoa học mà cho đến nay là công trình khảo sát toàn diện và cơ bản nhất về Tây Nguyên, chưa có tác phẩm nào vượt qua được.”
7/ Nhà truyền giáo Jacques Dournes với tác phẩm : Les Populations montagnardes du Sud-Indochinois  (Miền đất huyền ảo) đã được dịch ra riếng Việt
 8/ Các bài khảo chứng của tác giả Paul Guilleminet , viết vào :
     1942 : Le sacrifice du buffle chez les Banhar de la province de Kontum,
 La fête, ( Tục lệ lễ cúng trâu của người Banhar tại tỉnh Kontum) đăng trong BAVH, avril-Juin, trang 117 - 1954( Những người Bạn cố đô Huế.)
     -1952 : La tribu banhar du Kontum ( bộ lạc Banhar) trong BEFEO , Coutumier de la tribu Bahnar des Sedang et des Jarai de la province de Kontum trong EFFEO.
 9/ Lịch sử Cao Miên ( Histoire du Cambodge ), của tác giả Giteau - nhà khảo cổ người Pháp
 10/ Việt sử Tân biên , của Phạm Văn Sơn
 11/ Người việt Gốc Miên, của Lê Hương , xuất bản năm1969
 12/  Phật giáo Nam Tông tại Đông Nam Á( trích chương VII, phần nói về lịch sử Vương quốc Chiêm Thành, Chân Lạp); của GS.Trần Quang Thuận – Giám đốc Trung Tâm Học liệu Phật Giáo Hoa Kỳ. Đồng chủ tịch Liên hội Phật Giáo Hoa Kỳ.
13/ History of Laos (lịch sử Lào) của M.L. Manich (bản tiếng Anh))
14/ Grant Evans (2002) A Short History of Laos: The Land in Between, Allen & Unwin
15/ Theo công bố của Giáo Phận Ban Mê Thuột, đăng trên trang web của Giáo Phận này.
16/ Đại sử ký Biên giới Việt Nam - Lào, quyển 1, Vụ Biên giới phía Tây, ban Biên giới - Bộ Ngoại giao 
17/ Đại sử ký Biên giới Việt Nam - Lào, Quyển 2, Vụ Biên giới phía Tây, Ban Biên giới (Bộ Ngoại giao)).
18/ Lịch sử phong trào đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thị Xã Buôn Ma Thuột 1930- 1954
19/ Mộc bản Chính Hòa, tr. 450, tập II. Chú thích về Nam Bàn của Cương Mục dẫn lại theo chú thích của bản Toàn thư tiếng Việt NXB KHXH 1998, từ mộc bản Chính Hòa tr. 450, tập II.
20/ Tác giả  Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr.243.
________________________________


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét