Bìa cuốn sách của học giả người Mỹ
I / Bối cảnh:
Năm 1765 chúa Nguyễn Phúc
Khoát mất; Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi chúa. Ông không phải là
người được chuẩn bị để gánh vác trọng trách này mà một người anh là Nguyễn Phúc
Luân đã được chúa chọn và đào tạo để gánh vác trọng trách này. Nhưng khi chúa
mất quyền thần Trương Phúc Loan không muốn lập Nguyễn Phúc Luân lên ngôi vì ông
đã lớn tuổi khó bề lộng hành; thế là Loan đã chọn Nguyễn Phúc Thuần con thứ 12
cùa Phúc Khoát, mới 12 tuổi lên ngôi. Nguyễn Phúc Luân bị bắt giam và bị giết
sau đó.
Chúa còn nhỏ và không được
chuẩn bị sẵn để kế vị nên gặp nhiều bỡ ngỡ trên ngai vàng. Mọi quyền hành đều
do một tay Trương Phúc Loan sắp đặt; ông đã thâu tóm mọi quyền lực từ chính sự
cho tới kinh tế đều vào tay mình. Giữa lúc đó quan Thương thư bộ lại Nguyễn Cư
Trinh người có uy tín và tài năng trong việc điều hành quốc gia mất (tháng 5
năm Đinh Hợi – 1767). Thế là không còn ai can ngăn Phúc Loan trong việc thâu tóm quyền lực nữa. Trước hành vi này của
Phúc Loan rất nhiều phong trào phản kháng nổi lên khắp nơi, yêu cầu lập lập
Hoàng tôn Dương lên kế vị. Nhà Nguyễn đã trãi qua 9 đời chúa bây giờ mới gặp
cái nạn bị quyền thần lấn lướt như vậy.
Lợi dụng dịp này anh em Tây Sơn đã dấy binh khởi nghĩa ở Quy Nhơn (1771).
Tháng 5 năm Giáp Ngọ (1774) quân Trịnh ở phía Bắc đem đại quân vào đánh Nguyễn.
Có một điều khá oái ăm mà không phải ai cũng biết là cả quân Trịnh và quân Tây
Sơn đều lấy danh nghĩa và khẩu hiệu là “trừ khử quyền thần Trương Phúc Loan và
tôn phò Hoàng tôn Dương lên ngôi chúa”. (Nguyễn Phúc Dương là con trai của một
vị Hoàng thái Tử tên là Hiệu, ông đã mất sớm). Cho nên 2 đội quân này đi tới
đâu, đều được quân đội nhà Nguyễn và nhân dân phía Nam đón tiếp … Ngay cả khi
tôn thất nhà Nguyễn hợp lực bắt trói Trương Phúc Loan nộp cho quân Trịnh; nhưng
quân Trịnh vẫn không lui binh mà vẫn tiến chiếm thành Phú Xuân. Biết rằng mình
bị lừa chúa Nguyễn Phúc Thuần được các
quan hộ giá chạy vào Quảng Nam
lánh nạn. Quân Trịnh chiếm được Thuận Hóa mà không tốn một viên đạn nào, đó là
vào tháng 12 năm 1774. Trong số các quan nhà Trịnh được cử vào cai trị Thuận
Hóa có cụ Lê Quý Đôn (1776).
Quân Trịnh tiếp tục đánh vào Quảng Nam ,
chúa Nguyễn phải dẫn gia quyến chạy vào Nam bộ. Vào Quảng Nam quân Trịnh gặp
quân Tây Sơn phía trong đánh ra hai bên đã bắt tay hòa hoãn; quân Trịnh rút
khỏi Quảng Nam giao vùng đất từ Quảng Nam trở vào cho nhà Tây Sơn tranh hùng
với chúa Nguyễn ?
Bản đồ VN cuối thế kỷ 18
Yên tâm về mặt Bắc, quân đội nhà Tây Sơn dốc toàn lực tấn công tiêu diệt
quân của chúa Nguyễn. Do quân đội đã yếu, chúa lại còn nhỏ không giỏi chinh
chiến, nên tàn quân Nguyễn bại trận liên tục. Tháng 9 năm Đinh Dậu (1777) quân
Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đánh vào thành Sài gòn, quân Nguyễn đại bại bỏ
thành chạy xuống Long Xuyên. Quân Tây Sơn truy kích bào vây và chiếm thành Long
Xuyên, chúa Nguyễn Phúc Thuần và toàn bộ gia quyến bị bắt và giết chết (chỉ có
một mình Nguyễn Ánh, mới 15 tuổi, chạy thoát) .
II/. Cuộc khởi nghĩa của nhà Tây
Sơn:
Từ giữa thế kỷ XVIII chính
quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong trải qua cuộc chính biến và lũng loạn của quyền thần
Trương Phúc Loan nên đã bắt đầu suy yếu
dần, quan lại chỉ chuyên kết bè kéo cánh bóc lột nhân dân. Người nông dân phải nộp nhiều
thứ thuế, bị tước đoạt ruộng đất, bất bình oán giận dâng cao. Nên khi quân Tây
Sơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu phất cờ khởi nghĩa, cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng
được nhân dân đồng tình ủng hộ; năm
1771 Nguyễn Nhạc lập căn cứ ở vùng Tây Sơn thượng đạo (An Khê – Gia Lai), lúc
đầu mọi quyền hành đều do một mình Nguyễn Nhạc nắm vì hai người em còn lại còn
quá nhỏ. Sau khi binh lực hùng mạnh thì xuống lập căn cứ ở Kiên Mỹ (Bình Định),
với phương thức “lấy của người giàu chia cho người nghèo” xóa nợ và bỏ nhiều
thứ thuế cho dân; đã khiến cho cư dân trong vùng thích thú xin gia nhập đội
quân khởi nghĩa khá đông đảo. Tháng 9/ 1773 quân Tây Sơn lập mưu chiếm được thành
Quy Nhơn. Đến đầu năm 1774, quân Tây Sơn đã kiểm soát được hoàn toàn vùng đất
từ Quảng Nam tới Bình Thuận. Phía Bắc thì do quân Trịnh cái quản, phía Nam là vùng đất
của chúa Nguyễn.
Trên đây là phần lược trích từ chính sử ngày nay viết về phong trào Tây
sơn và tình hình chính sự của VN những năn cuối thế kỷ XVIII.
Nhưng sử nhà Nguyễn thì không
chép như vậy, họ cho rằng sự nhiễu loạn trên chính trường là do Trương Phúc
Loan gây nên; cộng với đó là quân Trịnh và quân Tây Sơn đã chớp lấy cơ hội này
lấy danh nghĩa và khẩu hiệu là “trừ khử
quyền thần Trương Phúc Loan và tôn phò Hoàng tôn Dương lên ngôi chúa”, trong
các cuộc tiến quân của mình. Đây chỉ là một khẩu hiệu để mua chuộc lòng dân đang
hường về “Hoàng Tôn Dương” mà hai bên đã sử dụng triệt để nhằm chiếm đoạt quyền
hành của nhà Nguyễn. Những gì xảy ra sau đó đã chứng minh cho nhận định này của
sử nhà Nguyễn là chính xác.
Khu vực quân khởi nghĩa Tây Sơn đóng quân
Sử nhà Nguyễn cũng chép rằng
“cuộc khởi nghĩa của anh em nhà Tây Sơn có một lý do hoàn toàn khác”. Theo đó,
Nguyễn Nhạc vốn là một vị quan chuyên thu thuế của nhân dân trong vùng; sau khi
thu phải có trách nhiệm nộp lên quan trên, nhưng trong một dịp thu được một
khoản tiền khá lớn Nhạc đã đánh bạc thua sạch. Sợ bị bắt tội, Nhạc đã dẫn toàn
bộ anh em trong gia đình bỏ trốn lên vùng An Khê (Gia Lai) thượng đạo; chiêu dụ
dân Thượng và những thành phần thảo khấu lập trang trại tổ chức sinh hoạt và
sinh sống như người khai hoang (lúc này vùng Tây Nguyên chưa thuộc về người Việt).
Do sống trên vùng núi rừng cực khổ, thiếu thốn đủ thứ nên Nhạc đã tổ chức những
nhóm cướp, thỉnh thoảng tổ chức tấn công xuống vùng đồng bằng lân cận để cướp
phá nhằm tìm kiếm cái ăn. Khu vực này nằm chung quanh đèo An Khê nhiều hiểm
trở, phần quan quân địa phương sau biến cố thay đổi ngôi Chúa (1765-1770); nội
tình nhà Nguyễn có nhiều biến động nên việc quản lý lỏng lẻo. Là một dịp rất
tốt cho Nguyễn Nhạc phát triển lực lượng xuống đồng bằng; năm 1772 Nguyễn Nhạc
đã lập được một căn cứ rất lớn ở Kiên Mỹ (Bình Định).
Tôi cũng không biết từ khi
nào người ta gọi cuộc khởi nghĩa của anh em nhà Tây Sơn là cuộc khởi nghĩa nông
dân và ai là người đã “phong” cho cuộc khởi nghĩa này cái mác là “nông dân”;
chỉ biết rằng thời ấy (1771) tại Việt Nam chưa có cái danh xưng “nông dân” mà
chỉ gọi họ là “người làm ruộng”. Chỉ đến khi chủ nghĩa Marx ra đời vào những
năm cuối thế kỷ 19, trong học thuyết của mình khi diễn đạt Marx mới phân biệt
giai cấp. Nào là công nhân, nông dân, tư sản, tiểu tư sản … giai cấp bóc lột và
không bóc lột … Nhưng tất cả những thứ này đều ở châu Âu và châu Mỹ, khoảng năm
1768-1777 người VN ta hoàn toàn không biết và cũng chưa có một ông VN nào đi tận châu Âu bê nguyên văn về truyền bá
lại cho người Việt ta, hay bắt dân ta phải theo cả (vì nó chưa ra đời). Cho nên
xin ai đó đừng gọi “phong trào nổi dậy của Tây Sơn” là phong trào “khởi nghĩa nông
dân”, vì người Việt ta thời đó chưa có cái danh xưng “Nông dân” này mà chỉ gọi họ là những người
làm ruộng ?
Bản đồ cuộc phân tranh Tây Sơn - Nguyễn
Phong trào Tây Sơn có rất nhiều mặt tích cực và bản thân Nguyễn
Huệ xứng đáng là một anh hùng dân tộc. Nhà Tây Sơn đã từng đánh bại các âm mưu
xâm lược của ngoại xâm như Xiêm La, Mãn Thanh… Nhưng cuối cùng, khi mà "toàn thắng
ắt về ta" thì Nguyễn Huệ lên ngôi vua - Vua Quang Trung. Thì ra đây chỉ là
một cuộc "đổi ngôi" ; một cuộc chiến nhằm tiếm ngôi vua của vua
Nguyễn đương triều và rồi cuộc sống của người "nông dân" vẫn không có gì
thay đồi cả !
Lịch sử luôn có những mặt trái của nó và vai trò lịch sử của phong trào Tây Sơn không chỉ là một “màu hồng” mà nó vẫn còn đó những góc khuất, những góc khuất cực kỳ tối đen !?
III/. Những góc khuất của phong
trào khởi nghĩa Tây Sơn
Theo những ghi chép của nhiều nhà truyền giáo sang truyền đạo tại Đại Nam ở
cuối thế kỷ 18; quân Tây Sơn là một đội
quân ô
hợp, đủ thành phần nhưng phần lớn xuất
thân từ những nông dân, thảo khấu. Lúc nào cũng
hừng hực khí thế cướp phá, đốt cháy trước kẻ thù, đi tới đâu là máu chảy thành
sông,… để lại sau lưng họ một đống hoang tàn, dân chúng thì bỏ chạy hoảng loạn.
Một đội quân mang tiếng là “cướp của
người giàu chia cho người nghèo” nhưng những gì họ để lại là một bãi
chiến trường đầy mùi tử khí, không có bất cứ người nghèo nào đủ can đảm mà ở
lại đón nhận những gì họ chia cho!
Quảng Nam trước năm 1773 là
vùng đất trù phú với nhiều nông thổ sản sản xuất từ đây được các thương nhân Nhật, người Hoa … mua
và đem bán đi khắp Đông Á. Với dân cư
đông đúc,
cảng thị Hội An sầm uất… Nhưng sau năm
17773 là vùng đất tranh chiếm và giằng co quyết liệt giữa Tây Sơn với chúa
Nguyễn. Chính trong thời gian này, người ta chứng kiến được những cảnh cướp phá
và vơ vét của những đội quân mang cái danh nông dân với tinh thần “cách mạng”
thái quá. Rất tiếc là những sử liệu minh chứng cho những sự kiện này không phải
xuất phát từ phía nhà Nguyễn, mà từ chính từ các nhà truyền giáo, các thuyền
buôn nước ngoài, những người trực tiếp chứng kiến cảnh tượng ấy.
Trong một bức thư viết khoảng
tháng 7 năm 1775, Đức cha Halbout đã ghi nhận: “…Quân nổi loạn đã cướp bóc,
cướp phá chẳng nương tay, đến nổi cư dân trong vùng cứ 20 người thì có 19 người chết… vì bị đầy đọa khổ sở. Các giáo khu ở Hàn và Cầu Né
đều không còn… Năm ngoái, ở Bầu Nghé từ tháng 4 đến tháng 9 âm lịch số giáo dân
bị giết đến sáu trăm người… Ở một nơi khác cũng thời gian ấy, ít nhất có đến
1500 giáo dân bị giết. Suốt hai năm ròng gần như quanh tôi lúc nào cũng có
người chết và hấp hối…”.
Cảng thị Hội An nơi trước đây
là một thương cảng sấm uất với “hàng trăm thuyền bè từ các của biển Trung Hoa
và Nhật Bản đến mua đường, quế hồ tiêu…” nay trong mắt nhà buôn Chapman chỉ là
một cảng thị điêu tàn, mà phải đến nhiều năm sau chưa phục hồi lại được. Linh
mục Labartette miêu tả ở Cửa Hàn (Đà Nẵng) “không còn một con heo, gà, vịt, …chạy
ngoài đường”. “ Đường cát trước kia sản xuất rất nhiều nay biến mất, tiền mất
giá một quan còn giá trị độ một đồng, tình trạng đói khổ ăn xin xuất hiện phổ
biến trong xứ, tình trạng này còn ảnh hưởng đến cả các dòng họ tôn thất và quan
quyền của triều Nguyễn trước đây.”
Tình trạng diễn ra ở Quảng
Nam không phải là cá biệt, trước đó khi chiếm Quy Nhơn năm 1773, và sau này là
Quảng Ngãi quân Tây Sơn cũng nhiều lần đốt phá dinh cơ và tàn sát dân lành.
Nhưng tình cảnh ở Quảng Nam có vẻ thê thảm hơn hay chúng ta không có nhiều tư
liệu cho thấy tình cảnh này ở các nơi khác. Không chỉ có các tài liệu phương
Tây, hệ quả mà quân Tây Sơn gây ra đã khiến cho dân xứ Quảng Nam, như Lê Qúy
Đôn ghi nhận: “…quá đỗi đói khổ cùng khốn, họ chỉ ngóng trong quân nhà vua đến
giải cứu cho họ…”. Những hành động tàn bạo này của quân Tây Sơn đã được các nhà
truyền giáo ghi chép lại cụ thể từ những gì họ chứng kiến. Cho ta thấy dường
như những động cơ tiến bộ của một cuộc khởi nghĩa nông dân chỉ là những sản
phẩm tưởng tượng từ đầu óc hoang tưởng của các nhà viết sử thế kỷ 20 ?
Lục tỉnh (6 tỉnh Nam Bộ), vùng đất tranh hùng của Tây sơn - Nguyễn
Từ năm 1776, sau khi tạm hòa hoãn
với quân Trịnh ở mặt Bắc, quân Tây Sơn bắt đầu những cuộc truy đuổi tàn dư chúa
Nguyễn ở phía Nam. Ngay trong lần đầu hành quân ấy, dù không lấy được Gia Định,
nhưng quân tướng nhà Tây Sơn dưới quyền của Nguyễn Lữ, đã kịp cướp bóc và vơ
vét thóc lúa chở trên hai trăm thuyền về Quy Nhơn. Kể từ đó, cứ hằng năm vào
mùa gió thuận quân Tây Sơn lại tiến vào đánh chiếm Gia Định, để rồi lại cướp
bóc vơ vét thóc lúa chở về Quy Nhơn. Quân Nguyễn vừa chống vừa lui, hễ đại quân
Tây Sơn rút về Quy Nhơn, quân Nguyễn lại đến tái chiếm, dẫn đến thế trận giằng
co liên tục. Từ đây lịch sử sẽ phải ghi nhận chiến công của Tây Sơn trong công
cuộc đánh bại chúa Nguyễn và quân xâm lược Xiêm La (1784), nhưng cũng sẽ ghi nhận
cuộc tàn phá và giết chóc tàn bạo nhất của phong trào này.
Những tài liệu cho đến nay
vẫn còn ghi nhận về một cuộc thảm sát chưa từng có, của quân Tây Sơn đối với
các cư dân người Hoa ở Gia Định, mà nhất là ở Cù Lao Phố vào năm 1782. Các sử
liệu của nhà Nguyễn ghi nhận, tháng 3 năm ấy, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ vào
đánh chiếm Gia Định, một viên tướng của Tây Sơn là Phạm Ngạn bị quân Hòa Nghĩa
(gồm phần đông người Hoa theo Nguyễn Ánh) do tướng Trần Công Chương cầm đầu bị giết
ở cầu Tham Lương. Đáp lại, Nguyễn Nhạc ra lệnh bắt người Hoa ở Gia Định không
kể quân hay dân đều giết hết, xác quăng xuống sông, thây chất ngổn ngang đến
nổi nước không chảy nổi, suốt mấy tháng trời người dân không dám ăn cá, tôm và
uống nước sông.
Những cảnh tượng “kinh khủng”
được miêu tả ở trên có thể là do sự phóng đại của sử quan triều Nguyễn, con số
“hơn vạn người” mà họ đưa ra cũng có thể phần nhiều chỉ là “thổi phồng”. Thế
nhưng ngày nay chúng ta còn có một nguồn tư liệu khác chính xác hơn và đáng tin hơn, đó là những ghi chép “mục sở
thị” của các nhà truyền giáo. Trong bức thư của Linh mục Andre Tôn (1/7/1784) lại ghi
nhận số người chết trong các cuộc tấn công của nhà Tây Sơn là khoảng từ 10.000
– 11.000 người, trong đó phần lớn là người Hoa. Một bầu không khí khủng bố chết
chóc bao trùm đối với người Hoa ở đây là có thật. Sau sự kiện này người Hoa từ
Cù Lao Phố đã bắt đầu từ bỏ vùng đất trù phú này di cư đến vùng đất Sài Gòn
ngày nay và cũng sau biến cố này Cù Lao Phố hay Nông Nại Đại Phố, một thời
thịnh đạt“trên bến dưới thuyền” trở nên hoang tàn.
Nguyên nhân dẫn đến cuộc thảm
sát năm 1782 là gì? Đa số các học giả của thế kỷ 20 cho rằng “việc người Hoa ở Gia Định ủng hộ Nguyễn Ánh
trong cuộc chiến chống lại Tây Sơn là lý do chính để gây ra cuộc thảm sát”. Tuy
nhiên đây lại là hệ quả của những sự kiện xảy ra trước đó, nếu xâu chuỗi các sự
kiện lại thì không có gì là khó hiểu cả ?
Người Hoa, xuất hiện trong
hàng ngũ quân Tây Sơn khá sớm, ngay sau khi chiếm thành Quy Nhơn (1773) có một nhóm
người Hoa do Tập Đình và Lý Tài đứng đầu tập hợp lại thành đội quân Hòa Nghĩa
gia nhập quân Tây Sơn. Trong lúc quân Tây Sơn đánh chiếm Quảng Nam, họ gặp một
nhóm người Hoa nữa xin gia nhập đội quân khởi nghĩa, họ chính là những khách
buôn giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động mậu dịch ở Hội An. Nhưng người
Hoa ở đây lại chính là những thương nhân giỏi buôn bán, nghe quân khởi nghĩa
đến người Hoa đã đem tiền bạc giúp sức. Nhưng ngay sau đó họ đã sớm nhận ra đây
chỉ là những kẻ cướp, quân khởi nghĩa đã cướp phá ngay tài sản của họ … để rồi Tập
Đình bị cách chức, Lý Tài cũng ngã về hàng ngũ chúa Nguyễn.
Sự phản bội của Lý Tài làm
Tây Sơn mất đi một lực lượng quan trọng, không khỏi gây ra sự hậm hực của
Nguyễn Nhạc, từ đây ác cảm của ông với người Hoa càng sâu đậm. Sau này, người
Hoa Gia Định lại càng là nguồn hỗ trợ đắc lực cho Nguyễn Ánh ớ phía Nam, và là
lực lượng hăng hái nhất trong cuộc đối đầu với Tây Sơn. Đó là lý do tại sao
ngay từ năm 1776, quân Tây Sơn khi mới vào Gia Định đã đánh đuổi, cướp phá của
người Hoa, cho đến năm 1782, nhân cái chết của một vị tướng thân thuộc – Phạm
Ngạn – Nguyễn Nhạc đã quyết tiêu diệt người Hoa, diệt trừ một lực lượng quan
trọng của Nguyễn Ánh lúc bấy giờ.
Đế kỳ của nhà Tây Sơn
IV/. Thay lời kết
Cách đây khoảng hơn 50 năm,
có một số nhà sử học đã cả gan đụng đến những góc khuất của phong trào khởi
nghĩa Tây Sơn, khi mà người ta đang tung hô và cho rằng đó là một phong trào
“nông dân khởi nghĩa” với những danh xưng mà người ta gán ghép cho nó, đặt biệt
là ở phương Tây. Nhưng ở VN, phải đến vào những năm 90 của thế kỷ trước mới có
người dám đề cập đến những góc khuất này một cách bài bản, đó là giáo sư Trần
Quốc Vượng; tôi đã tìm thấy ý kiến này trong một số bài viết của Giáo sư
Vượng trong một số cuốn tạp chí xuất bàn
tại Huế, năm 1985.
Sau khi bộ quốc sử đồ sộ của
Việt Nam chính thức ra mắt, đã đánh giá lại một số vấn đề … người ta không còn
gọi là ngụy quân – ngụy quyền nữa mà gọi là chế độ Sài gòn, là quân đội VNCH.
Người ta có cái nhìn thông cảm hơn về nhà Mạc; không còn kết tội triều Nguyễn
là bán nước cho Tây và gọi vua Gia Long là phản động là “cõng rắn cắn gà nhà”
nữa. Người ta cũng đã công nhận văn hóa Khmer; văn hóa Chăm; văn hóa Mường là
của người VN …
Nhưng cái nhìn về phong trào
Tây Sơn thì chưa có gì thay đổi cả; cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây
Sơn là sự kiện đưa đến nhiều dị biệt nhất về mặt quan điểm hay nhận thức. Nổi
bật nhất là quan điểm đưa ra cách nay hơn nửa thế kỷ, coi phong trào Tây Sơn
như cuộc nổi dậy của giới nông dân bị áp bức, chống lại nhà Nguyễn thối nát. Sự
lý tưởng hóa hầu như mọi hoạt động của phong trào Tây Sơn đã dẫn đến một số
nhận định chủ quan về thực chất của phong trào này, nhiều sự thật lịch sử liên
quan đến phong trào đã bị thần tượng hóa một cách gần như là thần thoại. Mãi
cho tới gần đây, cuộc nội chiến kéo 30 dài năm (1770-1800) giữa nhà Nguyễn và
nhà Tây Sơn được nhiều học giả, nhà nghiên cứu nước ngoài để tâm tìm hiểu. Họ
có diều kiện hơn khi dựa vào nhiều nguồn tư liệu ở các văn khố nước ngoài, tiêu
biểu là văn khố của Bộ Hải quân và Thuộc địa cũ và Hội Truyền giáo Hải ngoại
Paris (Pháp). Nhờ thế mà số dữ kiện được đưa ra về thời kỳ này phong phú hơn,
nhiều sự thật lịch sử trước đây, vì lý do này hay lý do khác, còn mơ hồ, chưa
thống nhất, nay được rõ ràng, dứt khoát hơn.
Một trong những tác phẩm tiêu
biểu cho chủ đề này là The Tây Sơn Uprising (Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn) của
giáo sư sử học người Mỹ George Dutton. Tác giả là giáo sư bộ môn Ngôn ngữ và
Văn hóa châu Á thuộc trường Đại học California tại Los Angeles (UCLA), Mỹ; từng
giảng dạy môn lịch sử Việt Nam cận và hiện đại, đồng thời là tác giả nhiều sách
viết về xã hội Việt Nam các thế kỷ XVIII, XIX và XX. Riêng tác phẩm The Tây Sơn
Uprising được trường Đại học Hawaii xuất bản năm 2006 là một công trình nghiên
cứu quan trọng của Dutton về phong trào Tây Sơn những năm 1771-1802, trong
khuôn khổ một cuộc nội chiến ác liệt và dằng dai kéo dài hơn 30 năm, với những
di chứng còn tồn tại đến thế kỷ XIX.
Tôi đã đọc trọn bộ bộ sách này,
công trình được thực hiện khá công phu, tỉ mỉ, ông đã đến nghiên cứu tại Việt
Nam nhiều lần, tìm hiểu trong các kho tư liệu có liên quan, tham vấn các nhà sử
học hiện nay, đồng thời về tận quê hương Bình Định của ba anh em nhà Tây Sơn,
nơi phát tích cuộc nổi dậy, tìm đọc nhiều công trình nghiên cứu cũng như các
truyền thuyết ở địa phương xung quanh “phong trào nông dân” này. Nhìn chung,
qua công trình nghiên cứu về nhà Tây Sơn, tác giả đã cố gắng đưa ra những cứ
liệu lịch sử tương đối khách quan để minh chứng cho các luận điểm của
mình.
Góc khuất chỉ là một cách nói nhằm tránh xung đột với sử cách mạng. Nhưng lý do vì sao cái phong trào “khởi nghĩa nông dân này” này nó lụi tàn nhanh chóng đến như vậy là một câu hỏi cần được làm rõ?
Trong những góc khuất đó có
rất nhiều những góc khuất lịch sử vẫn còn nhiều bí ấn. Những góc khuất này
không thể che lắp và phủ định được vài trò lịch sử của Tây Sơn, nhưng tự bản
thân nó giúp chúng ta nhận chân hơn lịch sử, nhìn lịch sử bằng cái nhìn tương đối,
không nên huyền thoại hóa lịch sử.
Bài viết chỉ là một nghiên
cứu ngắn về nhà Tây Sơn. Trách nhiệm của những người nghiên cứu sử là không
được phép thỏa mãn với những gì đã có sẵn. Công việc của họ là phải tìm tòi,
khám phá những cái mới, những điều chưa ai biết hoặc chưa được công bố. Điều
này, không có nghĩa là họ phải phủ nhận những cái cũ, nhưng trách nhiệm của họ
là phải tìm ra trong những điều đã có đó đâu là sự thật !
Phải chăng đây là một sự thật nữa cần trả lại cho lịch sử ?
ĐKT
12/4/2019
* Tài liệu tham khảo:
1/. Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam (1771
– 1802), Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2012.
2/. Trần Quốc Vượng, “Mấy vấn
đề về vua Gia Long”, Tạp chí Xưa
và Nay, số 448, tháng 6, 2014, tr. 26 – 29 và số 450, tháng 10, 2014, tr.
14 – 18.
3/.Trung tâm Nghiên cứu Quốc
học, Thư của các giáo sĩ thừa
sai, Nguyễn Minh Hoàng dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2013, tr. 232 – 23.
4/. P.
Lorenzo Pérez, “La Révolte et la guerre des Tayson d’après les Franciscains
Espagnols de Cochinchine”,Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises,
XII, no.3-4 (1940), pp. 76.
5/. Lê Quý Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, tập 1, Phủ
Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa xuất bản, Saigon, 1972, tr. 134.
6/. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 187; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Nxb.
Thuận Hóa, Huế, 2006, tr. 561.
7/. Trung tâm Nghiên cứu Quốc
học,sđd, tr. 392.
8/. F. Garnier, “Cholen”, Annuaire de la Cochinchina
Francasie, Imprimerie Impériale, Saigon, 1865, pp.
9/. Trần Văn Giàu (Chủ biên), Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí
Minh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, tr. 220.
10/. Fujiwara Riichiro, “Vietnamese
Dynasties Policies Toward Chinese Immigrants”.
11/. Acta Asiatica 18 (1970), p. 60.
12/. Huỳnh Minh, Gia
Định Xưa và Nay, Saigon, 1973, tr. 182;
13/. Choi
Byung Wook, Vùng đất Nam Bộ
dưới thời Minh Mạng, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2011, tr. 65 – 69.
14/. Quốc sử quán triều, Nguyễn, Đại Nam thực lục, sđd, tr.
185. Đại Nam liệt truyện, sđd, tr. 560 – 561.
15/. Từ điển bách khoa Tri thức quốc phòng
toàn dân; Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002.
16/. Lịch sử Việt Nam từ
nguồn gốc đến năm 1884. Nhà xuất bản tổng hợp TP HCM, 2011.
17/. Lịch sử Việt Nam giản yếu, Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000.
17/. Lịch sử Việt Nam giản yếu, Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000.