Trong những năm gần đây ở các tỉnh phía Bắc hàng năm
có đến hàng ngàn lễ hội được tổ chức rất tốn kém, với mục đích mà người ta cho rằng đấy là phục hồi bản
sắc văn hóa vùng miền, hay bản sắc văn hóa dân tộc. Điều đặc biệt là đa số các lễ hội này đều được tổ chức ở một khu
văn hóa nào đó được quy định sẵn hay ở những khu Du lịch Sinh thái. Đây là cái
mà nhà văn Nguyên Ngọc gọi là “Văn Hóa
diễn”, tách ra khỏi đời sống thực của làng quê; còn cái hồn của các giá trị
ấy không còn nữa!
Lễ hội qua đi, chẳng để lại được gì trong lòng người dân địa
phương và những người khách thập phương; có chăng là những ấn tượng chẳng mấy
tốt đẹp. Mang tiếng là lễ hội với bản sắc văn hóa địa phương, nhưng cái mà người
ta thấy tất cả chỉ là sự bắt chước một cách thô kệch, với những hình nhân, những con rối
với những màn nhảy múa hiện đại, qua tiếng nhạc, tiếng trống, quần áo lòe loẹt mà lễ hội nào cũng thấy na ná giống nhau.
Thật tế đây chỉ là những màn kịch, chỉ là cái bề ngoài, nó xa rời thực tế cuộc
sống và những thuần phong mỹ tục của người dân địa phương và tất cả chỉ là
dịch vụ. Ngay cả tôn giáo cũng có nguy cơ biến thành dịch vụ “ buôn thần bán
thánh ”(1).
Nhưng may thay, vẫn còn cái để
chúng ta hy vọng và tự hào, vẫn còn có những nơi mà nền văn hóa bản địa ở trạng thô sơ nguyên thủy (état brut)
vẫn chưa bị thị trường hóa, đó là – xứ Huế. Đây là “ đại diện duy nhất, tiêu biểu nhất cho nền
Văn hóa - Văn hiến Việt Nam thông qua hệ thống văn hóa vật thể, phi vật thể
trên nền tảng xã hội mà Huế đang lưu giữ và tiếp tục phát triển ..." (2).
Trong những làng quê thanh bình và hiền hòa của xứ Thuận Hóa
xưa (nay là vùng đất thuộc Quảng Trị - Thừa Thiên), vẫn còn đó những phong tục
tập quán, những lễ hội rất hay đang được người dân nơi đây gìn giữ trong từng
gia đình, từng dòng Họ và từng làng quê.
Với bài viết ngắn này, tôi không nhằm mục đích là rao giảng một triết lý
sống hoặc nhân sinh quan của mình, chẳng qua chỉ là những bức xúc nhất thời qua
những gì mắt thấy tai nghe về thời thế (4).
Sau đây tôi xin giới thiệu với quý độc giả về một nét văn hóa cổ xưa vẫn đang được cộng đồng
cư dân Thuận Hóa gìn giữ và phát huy rất tốt, kể từ khi vùng đất này trở về với
nước Việt. Đó là tục lệ cúng giỗ của người Huế .
Từ xa xưa, ông cha ta đã ý thức được vai trò của gia đình là rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, và hiện nay gia đình càng được quan tâm hơn trong điều kiện đất nước hòa bình thống nhất. Văn hóa gia đình ở Huế luôn lấy những giá trị chuẩn mực như: đề cao văn hóa, lễ giáo, hiếu học, trọng tình nghĩa, sống nhân ái, tinh thần tự tôn, tự lực...làm cái gốc để hình thành và phát triển một gia đình thực thụ .
Theo phong tục, để tưởng nhớ sâu sắc và
lâu dài công ơn ông bà, cha mẹ (những người đã mất)…, hàng năm đúng vào ngày qua
đời của ông bà, cha mẹ; người ta đều làm giỗ; đây là một tập quán rất trọng hậu
trong tín ngưỡng của người Việt. Cổ nhân dạy rằng :
Sinh, sự chi di lễ
Tử, táng chi di lễ
Tế chi di lễ.
Tạm dịch: Sống phụng sự cho hợp lễ
Chết, tống táng cho hợp lễ
Cúng tế cho hợp lễ.
(Sách Luận Ngữ)
Bởi khi ông bà, cha mẹ “ra đi” thì sự tử cũng như sự sinh, phụng dưỡng
người đã chết như người còn sống.
Việc cúng giỗ người đã chết không phải là một tôn giáo, mà là một tập
tục. Nhà nước qua các thời kỳ không hề ghi thành luật lệ, nhưng nó lại là một
điển lệ trong phong tục. Phong tục nhiều khi ràng buộc hành vi của con người
chắc chắn hơn luật pháp rất nhiều.
Ngày giỗ là ngày kỷ niệm lúc lâm chung của người quá cố hàng năm; anh
em, con cháu, bà con họ hàng thân thích tưởng nhớ đến người đã khuất, ôn lại
cội nguồn. Nhận thức đúng ý nghĩa của ngày giỗ, con cháu thường tổ chức ra thăm
mộ, thắp lên mộ phần những nén nhang tưởng niệm. Ngày giỗ cũng là dịp gia đình,
thân tộc kiểm tra lại việc thực hiện di chúc của người quá cố. Nếu có việc gì
chưa làm được thì nhắc nhở nhau làm cho tròn những điều ước vọng của người đã
khuất. Đây là cách tốt nhất để tưởng nhớ và trả ơn ông bà, cha mẹ… đã có công
sinh thành và nuôi dưỡng chúng ta.
Việc cúng kỵ (lễ giỗ) cũng nói lên gia phong của mỗi gia đình. Sự tưởng
niệm ngày mất (húy nhật) ấy được xem trọng hơn ngày sinh (sinh nhật). Ngoài ra,
tùy theo điều kiện gia đình, còn có thể tổ chức cúng ông bà, cha mẹ… vào những
Tết: Tết Nguyên đán, Nguyên tiêu, Đoan ngọ,… hoặc tổ chức các lễ khánh hỹ: mừng
thọ.
Từ thành phố cho đến thôn quê, trong mỗi gia đình người dân Huế đều cố
gắng có được bàn thờ tổ tiên nằm nơi trang trọng nhất trong nhà. Sự thờ cúng
này ngoài yếu tố tâm linh còn giáo dục sự hiếu nghĩa, biết ơn người sinh thành
và sống có đạo đức, đối với thế hệ con cháu trong nhà.
Cái lễ giáo trong văn hóa gia đình Huế thể hiện rõ nét nhất là trong
những dịp lễ, tết, hiếu, hỉ. Trong các lễ giỗ con cháu phải tự sắp xếp để về dự
ngày giỗ ông bà, cha mẹ…. đều có trách nhiệm rõ ràng trong những dịp này, thể
hiện sự kính trên nhường dưới, động viên khích lệ những ai có tinh thần trách
nhiệm lo việc hiếu sự trong gia đình, dòng tộc. Không phải tự nhiên mà trong
dân gian ở Huế có câu: “ bỏ chạp mất Họ, bỏ giỗ mất anh em” là vậy ?
Trong cái “gia phong, lễ giáo” được tạo ra trong mỗi gia đình ở Huế, là
do phần lớn đều có gia quy, gia pháp, gia phong, gia đạo. Sự nghiêm khắc đến
khắt khe này thực sự có tác dụng giáo dục con người ngay trong gia đình - sống
có thứ bậc, có trách nhiệm, không tuỳ tiện.
Trong tập quán cổ truyền của
người Huế về việc hiếu - hỷ, khi một người thân vừa mất đi, việc cúng giỗ được
bắt đầu thực hiện, người ta còn phân ra các ngày giỗ như sau (3):
Lễ ba ngày, bốn chín ngày, một trăm ngày,
giỗ đầu (tiểu tường), giỗ hết(đại tường) và cuối cùng là lễ đàm tế. Theo cổ lể
tất cả các ngày lễ kể trên đều là lễ trọng, không được bỏ qua một loại lễ nào,
dù trong bất bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào.
- Lễ ba ngày, được tính ba ngày sau khi chôn
cất. Theo điển lệ, ngày giỗ này gọi là lễ tế ngu, gồm có sơ ngu , tái ngu và
tam ngu. Ngu nghĩa là yên – tức là ba lần tế lễ cho yên hồn lạc phách ; sau khi
chôn cất xong, rước linh vị về nhà làm lễ tế sơ ngu. Làm sơ ngu xong gặp ngày
nhu, (tức là Ất, Kỷ, Tân, Quý) làm lễ tái ngu, nếu gặp ngày cương (tức là ngày
Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm) phải làm lễ tam ngu. Lâu dần người ta giảm lược,
nhập chung ba lễ làm một gọi là lễ tam ngu, hay còn gọi là lễ ba ngày, tục gọi
là lễ mở cửa mả (3).
- Lễ chung thất (tức 49 ngày),
sau khi người thân mất đi là một mất mát lớn cho gia đình. Gia đình Việt Nam
nhà nào cũng vậy, mỗi ngày có hai bữa cơm là giờ phút đầm ấm nhất. Trong nhà có
người về muộn, mọi người cũng cố chờ về ăn cơm cùng lúc cho vui vẻ, đầm ấm. Con
cháu cầm bát cơm lên, trước hết mời ông bà, cha mẹ; chờ ông bà, cha mẹ ăn rồi
mới bắt đầu dám ăn. Nếu có khách, trước khi buông bát đũa đứng dậy còn phải xin
phép và mời khách tiếp tục xơi cơm. Cuộc sống gia đình đang vui vẻ êm đẹp như
vậy, vắng mặt trong bữa cơm còn nhắc nhở nhau, huống chi nay một người thân
vĩnh viễn đi xa. Do đó, trước bữa ăn người thân dâng lên bàn thờ một bát cơm
úp, một vài món ăn bình thường, nhà đang ăn gì thứ gì thì cúng thứ ấy; nếu
không có thì bát cơm đĩa muối cũng xong. Thắp hương xong khấn vái, nếu có thì
rót thêm chén rượu cuối cùng là chén nước.
Thường nhật như vậy cho đến 49 ngày; sẽ làm
một cái lễ , to nhỏ tùy theo hoàn cảnh gọi là lễ chung thất, cho vong hồn siêu thoát. Theo cổ lệ thì lúc này vong
hồn người chết đã qua 7 lần phán xét (mỗi lần 7 ngày) ở cõi âm ty, và vong hồn
đã siêu thoát. Gia đình lúc này chỉ còn nhớ thương, không nên lưu luyến quá vì
vong hồn còn phải đi đầu thai kiếp khác (3).
Nhưng cũng có địa phương và ở các gia đình
có điều kiện người ta vẫn duy trì việc cúng cơm này cho đến 100 ngày mới làm lễ
tốt khốc (nghĩa là thôi khóc). Theo
giải thích của cổ lệ thì thời gian này âm hồn vẫn còn phảng phất lẩn quẩn trong
nhà chưa đi xa, không thể để cho âm hồn đói khát được.
- Giỗ đầu (tiểu
tường)
Tiểu
tường có nghĩa là điềm lành nhỏ. Theo tập quán xưa cho rằng: người chết sau
một năm thì hương hồn đã được yên vị nơi cữu tuyền (chín suối), hoặc đã đầu
thai kiếp khác. Ở trần thế sự đau đớn của con cháu đã vơi đi nhiều phần. Khi
người thân mất đi đúng tròn một năm, con cháu tụ tập để làm giỗ đầu. Dù bận rộn
tới đâu người ta vẫn cố thu xếp mọi công việc để làm giỗ đầu cho thật chu đáo.
Từ sau lễ này con cháu mới bỏ các hung phục (tang phục) như đồ sô gai, mũ, gậy…(3)
Cũng theo cổ lệ, trước ngày giỗ chính thức,
con cháu phải làm lễ “cáo giỗ”- hay
còn gọi là lễ “tiên thường”. Lễ này
ngoài việc là báo cáo cho người đã khuất việc cúng giỗ ngày hôm sau, thì chức
năng chính của lễ này là kính cáo với Thổ công, Thần linh xin phép cho vong hồn
được cúng giỗ về thụ hưởng. Đồng thời, cũng xin Thổ công cho phép các linh hồn
gia tiên nội, ngoại về dự lễ giỗ. Tục này là nhằm giữ phép tắc với cõi âm, cũng
bởi “Đất có Thổ công, sông có Hà bá” là vậy!
Tuy nhiên tục này thường chỉ áp dụng đối với
những giỗ trọng; như giỗ ông bà, cha mẹ, vợ hoặc chồng (4).
Cũng trong ngày “tiên thường”, con cháu ra phần mộ người thân để dọn dẹp, lau chùi,
quét tước và sửa sang phần mộ chu đáo, sau đó thì khấn vái mời vong hồn người
đã mất về gia đình hưởng giỗ. Cũng không được quên là phải khấn mời Thổ công và
ông bà tổ tiên về dự lễ giỗ.
Tục xưa quy định rằng : Trong lễ giỗ “tiểu tường”, gia chủ phải sắm đồ mã bằng
giấy, biểu trưng những đồ dùng hàng ngày
của người đã mất ở thế giới bên kia cần đến như: quần áo, vàng, bạc, phương
tiện…để đốt cho người chết.
Hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau về việc đốt vàng mả - đa số cho rằng
đây là một hủ tục cần bãi bỏ. Tôi không cổ súy hay khuyến khích mọi người đốt
vàng mã, mà chỉ muốn tìm hiểu căn nguyên của tập tục này và những vấn đề có
liên quan đến nó (4).
Thực ra tục lệ đốt vàng mả bắt nguồn từ một một phong tục đầy
tính nhân văn có từ thời cổ đại; khi chôn cất người chết người ta thường chôn
theo những đồ vật thường dùng, gọi là đồ tùy
táng (Có rất nhiều các dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên như Ê Đê, Ra Lai, Ba
Na …hiện vẫn đang giữ tục lệ chôn theo người chết đồ tùy táng). Có một số đồ vật quá lớn như nhà ở, trâu bò, ngựa
xe…không thể chôn theo trong mộ được, người ta phải làm mô hình nhỏ lại để chôn
theo, những thứ này gọi là đồ minh khí. Lâu dần về sau người ta mới làm bằng
giấy thay cho tất cả các đồ tùy táng
và đồ minh khí, người ta gọi chung là
đồ mả.
Có nghĩa là người ta thay thế tiền thật bằng tiền giấy giả, vàng bạc
thật bằng vàng giấy, cái nhà thật bằng cái nhà giấy, con trâu con bò thật bằng
con vật bằng giấy, cái xe thật bằng xe giấy… Và người ta giữ lại những đồ vật thật
có giá trị gấp nhiều lần các mô hình bằng giấy đó cho người sống sử dụng - vậy
thì tục lệ này là quá tốt, quá kinh tế và quá thực dụng tại sao ta phải lên án
nó ?
Thực ra
vàng mã chỉ là biểu trưng ý niệm của con người mà thôi. Đây là một điển lệ trong phong tục, mà phong
tục lại ràng buộc hành vi của con người chắc chắn hơn mọi thứ luật pháp. Các
thể chế nhà nước qua các thời kỳ không hề có một văn bản nào khuyến khích hay
cấm đoán tập tục này cả. Luật pháp dưới thể chế nhà nước hiện nay cũng nói rõ
là “người dân có quyền làm những gì luật pháp không cấm”. Vậy thì tại sao ai đó có quyền lên án người khác khi họ đốt vàng mã cho người thân đã mất của họ ?
Tuy biết rằng tục xưa là vậy, và “ xưa
bày thì nay làm ”; nhưng ngày nay xã hội văn minh, con người có nhiều hiểu
biết về khoa học hơn, bà con ta có đốt vàng mã cho người thân đã mất thì cũng
nên làm nhẹ nhàng, tránh tốn kém và cũng chỉ là biểu trưng của ý niệm mà thôi.
- Giỗ hết (đại tường):
- Giỗ hết (đại tường):
Giỗ hết còn gọi là giỗ đoạn tang,
lễ này tiến hành đúng hai năm kể từ ngày mất, đồng thời là giỗ lần thứ hai,
được coi là chấm dứt (hết việc).
Nhưng theo cổ lệ, phải hai hoặc ba tháng sau, người ta sẽ chọn một ngày tốt
tiến hành một cuộc lễ Trừ phục (hay
còn gọi là lễ đàm tế), người ta sẽ
đem tất cả đồ tang phục ra đốt hết. Từ sau ngày này, những người để tang trong
nhà được phép mặc lại thường phục như trước kia.
Cũng trong lễ này, người ta rước linh vị vào bàn thờ chính, bỏ bàn thờ
tang (thờ vong); nhưng trước đó người ta phải đốt linh vị cũ và thay thế bằng
linh vị mới. Sau đó, linh vị mới, bát
hương, ảnh chân dung được thờ chung với bàn thờ chính của gia tiên.
Thực tế là thời gian từ lễ “đại tường” tới lễ “đàm tế” là chỉ trong
vòng 03 tháng trở lại, cộng với 02 năm trước, là hai mươi bảy tháng, nên dân
gian xưa có câu vợ khóc chồng: “ ba năm
hai mươi bảy tháng chàng ơi ! ”, cũng là từ thật tế này mà ra. Như vậy vợ
để tang chồng cũng chỉ hai mươi bảy tháng, giống như con để tang cha mẹ (3), (4).
- Giỗ kỵ nhật:
Sau giỗ hết, người thân cứ lệ
hàng năm đến ngày mất của người quá cố lại làm lễ giỗ thường gọi là kỵ nhật (hay cát kỵ). Nếu giỗ tiểu tường và giỗ đại tường là những lễ giỗ còn trong vòng tang, còn mang nặng những
xót thương, tủi hận, bi ai thì ngày giỗ
thường lại là ngày sum họp của gia đình và con cháu nội ngoại. Đây là dịp
để mọi người trong gia đình, họ tộc gặp nhau, thăm viếng sức khỏe và cố kết
cộng đồng, gia đình, dòng họ (3), (4).
Tùy phong tục của từng địa phương, từng dân tộc, từng gia cảnh mà việc
tổ chức ngày giỗ có khác nhau. Điều quan trọng là nhân ngày này, các thế hệ con
cháu tưởng nhớ đến người đã khuất, thể hiện lòng thành với vong linh tổ tiên.
Nếu như nén hương, chén nước, đĩa muối, lưng canh mà thành tâm thì cũng giữ
được đạo hiếu và lòng biết ơn tổ tiên. Đấy cũng là nét đạo lý làm người trong
truyền thống văn hóa Việt Nam.
Chúng ta
thường nghe câu “chết là hết”. Nhưng,
chết chưa phải là đã hết khi người chết còn tồn tại trong tâm chí người sống.
Sự ràng buộc vật chất duy nhất còn lại là bát nhang chén nước trên ban thờ, để
khi nhớ thương thì thắp lên nén nhang rót đầy chén nước. Điều này cũng không
làm phiền hà ai, vì thờ cúng vong linh cũng giống như đang đối với người đang
sống, cũng là để thỏa nguyện tâm linh và “ lấy
câu vận mệnh khuây dần nhớ thương” mà thôi!
Lời kết:
Những ngôi làng cổ ở Huế vẫn còn nguyên vẹn, những mái nhà rường của cha
ông vẫn được trùng tu, bảo tồn bên cạnh nhưng ngôi nhà hiện đại cao tầng của con
cháu. Nó như một vật chứng giáo dục sự biết ơn, “như cây có cội, nước có nguồn”, gìn giữ gia phong, lễ giáo và
truyền thống tốt đẹp của gia đình.
Trong mỗi gia đình thì thực hiện “ông
bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo”. Lối sống trọng tình, trọng nghĩa là bản
tính của con người Việt Nam nói chung và với người Huế lại càng sâu sắc hơn.
Bởi vậy, trong các gia đình, các dòng Họ ở Huế càng không thể chấp nhận sự
huênh hoang của đồng tiền, địa vị xã hội khi về trong gia đình, trong dòng Họ.
Trong giai đoạn lịch sử đất nước hòa
bình, hội nhập và phát triển, các giá trị văn hóa gia đình ở Huế cần có sự
bảo tồn, cách tân, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống. Nhưng đồng
thời phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và bổ sung các giá trị văn hóa mới làm
cho gia đình, dòng Họ hoàn thiện hơn.
Tuy hiện nay những chuẩn mực, giá trị văn hóa gia đình ở Huế mặc dù luôn
được bảo tồn và phát triển, nhưng bên cạnh mặc trái của cơ chế thị trường, sẽ là nguyên nhân dẫn đến mai một. Trong giai đoạn này trách nhiệm của các nhà quản lý văn hóa là cực kỳ nặng nề; họ phải biết giữ gìn và phát huy các giá
trị, chuẩn mực văn hóa gia đình ở Huế.
Làm được điều này chẳng những bảo tồn được những giá trị chuẩn mực văn
hóa gia đình, văn hóa dòng họ, như : trọng tình, có nghĩa, có trước, có sau, có
trên, có dưới trong truyền thống của ông cha để lại, mà còn làm phong phú thêm
lối sống mới, chống lại lối sống vô tình, vô nghĩa, bất chấp trước
sau, trên dưới
ĐKT
ĐKT
* Ghi chú:
(1)
Những ai đã từng đến khu du lịch Bái Đính ở Ninh bình và khu du lịch Đại Nam ở
Bình Dương sẽ thấy rõ điều này.
(2) Kết
luận tại buổi làm việc về "Bảo tồn Văn hóa và di sản Huế ", giữa Ủy
ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế và Hội đồng Di sản Văn hóa quốc gia ( UNESCO
- Việt Nam ) ngày 08 - 05 - 2007 tại tỉnh Thừa Thiên - Huế.
(3) Tư liệu này từ các tác phẩm :
Thọ mai Gia lễ - của tác giả Hồ Sĩ Dương,
Thanh thuận Gia
lễ - của Lê Quý Đôn,
Chu Văn Công Gia lễ (của Trung hoa),
ý kiến trong một số tác phẩm của Phan Kế Bính
(4) Tư liệu này dựa theo thật tế điền dã và tư liệu riêng của
tác giả.
---------------------------------------------